Ý chí mới là tự do một cách tự-mình là ý chí trực tiếp hay ý chí tự nhiên.
Những quy định của sự khác biệt – được thiết định bên trong ý chí bởi Khái
niệm tự-quy định – xuất hiện ra trong ý chí trực tiếp như là một nội dung hiện
diện một cách trực tiếp: đó là những động lực bản năng, ham muốn và xu
hướng, qua đó ý chí thấy mình bị quy định bởi [bản tính] tự nhiên. Nội dung
này, cùng với những quy định được phát triển bên trong nó, tuy đều bắt
nguồn từ tính hợp lý tính của ý chí, và, vì thế, là hợp-lý tính một cách tự-mình, nhưng vì được diễn đạt trong hình thức của sự trực tiếp như thế, nên
chưa có được hình thức của tính hợp lý tính[1]. Cho tôi, nội dung này tuy
hoàn toàn là của tôi, nhưng hình thức và nội dung ấy còn khác biệt nhau, nên
ý chí là một ý chí hữu hạn bên trong chính mình
36 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nguyên lý của triết học pháp quyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các nguyên lý của triết học pháp quyền (kỳ 3)
Thứ 6, ngày 20 Tháng Chín năm 2013
G. W. F. HEGEL
CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN
(GRUNDLINIEN DER PHILOSOPHIE DES RECHTS)
BÙI VĂN NAM SƠN dịch và chú giải
--- o0o ---
DẪN NHẬP
[Khái niệm về Pháp quyền, Triết học Pháp quyền, Ý chí, và Tự do]
Ý chí mới là tự do một cách tự-mình là ý chí trực tiếp hay ý chí tự nhiên.
Những quy định của sự khác biệt – được thiết định bên trong ý chí bởi Khái
niệm tự-quy định – xuất hiện ra trong ý chí trực tiếp như là một nội dung hiện
diện một cách trực tiếp: đó là những động lực bản năng, ham muốn và xu
hướng, qua đó ý chí thấy mình bị quy định bởi [bản tính] tự nhiên. Nội dung
này, cùng với những quy định được phát triển bên trong nó, tuy đều bắt
nguồn từ tính hợp lý tính của ý chí, và, vì thế, là hợp-lý tính một cách tự-
mình, nhưng vì được diễn đạt trong hình thức của sự trực tiếp như thế, nên
chưa có được hình thức của tính hợp lý tính[1]. Cho tôi, nội dung này tuy
hoàn toàn là của tôi, nhưng hình thức và nội dung ấy còn khác biệt nhau, nên
ý chí là một ý chí hữu hạn bên trong chính mình
Môn tâm lý học thường nghiệm tường thuật và mô tả những động cơ bản năng
và những xu hướng cùng với những nhu cầu thoát thai từ chúng khi tìm thấy
hay cho rằng mình tìm thấy chúng ở trong kinh nghiệm và tìm cách phân loại
chất liệu được mang lại này theo kiểu thông thường. Dưới đây, ta sẽ xét xem
[yếu tố] khách quan của những động cơ này là gì, xem yếu tố mang hình thái
nào trong sự thật của nó (không phải hình thức của sự phi-lý tính như nó đang
tồn tại như là động cơ) và đồng thời mang hình thái nào trong sự hiện hữu của
nó.
Giảng thêm (H)
Thú vật cũng có những động cơ bản năng, những ham muốn và xu hướng, nhưng
chúng không có ý chí và phải tuân theo động cơ bản năng của chúng nếu không có
gì bên ngoài ngăn cản chúng. Còn con người, như là hoàn toàn không-bị quy định
[hay: bất định], đứng lên trên những động cơ bản năng và có thể quy định và thiết
định chúng như là của chính mình. Động cơ bản năng là bộ phận của tự nhiên,
nhưng, việc tôi thiết định nó trong cái “Tôi” này là phụ thuộc vào ý chí của tôi, vì
thế ý chí không thể viện lý do rằng động lực bản năng là có cơ sở ở trong [bản
tính] tự nhiên.
§12
Hệ thống của nội dung này – như nó hiện diện một cách trực tiếp trong ý chí –
chỉ hiện hữu như là một khối lượng đa tạp những động cơ bản năng; mỗi cái
trong chúng là của tôi nói chung bên cạnh những cái khác, và đồng thời, là
một cái gì phổ biến và bất định bao gồm nhiều đối tượng và những cách thức
thỏa mãn khác nhau. Chính trong tính bất định gấp đôi này mà ý chí mang lại
cho mình hình thức của tính cá biệt (§7): nó là một ý chí [biết] quyết định; và,
chỉ với tư cách là ý chí [biết] quyết định nói chung, ý chí mới là ý chí hiện
thực.
“Quyết định về một điều gì” (etwas beschlieβen)[2] là thủ tiêu tính bất định,
trong đó nội dung này cũng như bất kỳ nội dung nào khác thoạt đầu không gì
khác hơn là một khả thể. | Nhưng, ngôn ngữ của chúng ta [tiếng Đức, N.D]
cũng có một cách nói khác: sich entschlieβen [“tự-quyết định”], biểu thị rằng
tính bất định của bản thân ý chí – như là cái gì trung lập nhưng lại màu mỡ vô
hạn, như là hạt mầm nguyên thủy của mọi sự hiện hữu – chứa đựng trong
mình những quy định và mục đích và chỉ làm cho chúng xuất lộ ra từ bên
trong chính mình mà thôi.
§13
Bằng việc quyết định, ý chí thiết định chính mình như là ý chí của một cá
nhân nhất định và như là ý chí phân biệt mình với mọi cái khác. Nhưng, ngoài
tính hữu hạn này – với tư cách là ý thức (§8) –, thì do còn có sự khác biệt giữa
hình thức và nội dung (§11), nên ý chí-trực tiếp chỉ có tính đơn thuần hình
thức; chức năng phù hợp của nó là sự quyết định trừu tượng; và nội dung của
nó chưa phải là nội dung và thành quả của sự tự do của nó.
Trong chừng mực trí tuệ là [năng lực] tư duy, thì đối tượng và nội dung của
nó vẫn mãi là cái phổ biến, còn bản thân trí tuệ thì hành xử như một hoạt
động phổ biến. Trong ý chí, cái phổ biến cũng thiết yếu có nghĩa là “cái gì của
tôi” như là tính cá biệt; còn trong ý chí trực tiếp, tức ý chí hình thức, nó có
nghĩa là tính cá biệt trừu tượng chưa được lấp đầy bằng tính phổ biến tự do
của nó. Vì thế, tính hữu hạn của chính trí tuệ bắt đầu ở trong ý chí, và, chỉ
bằng cách ý chí lại tự nâng mình lên thành tư duy và mang lại tính phổ biến
nội tại cho những mục đích của mình thì nó mới thải hồi sự khác biệt giữa
hình thức và nội dung và làm cho mình trở thành ý chí khách quan, vô hạn.
Cho nên, những ai hiểu biết ít ỏi về bản tính của tư duy và ý muốn mới cho
rằng con người là vô hạn ở trong ý chí, còn con người – hay bản thân lý tính –
là bị hạn chế ở trong tư duy[3]. Chừng nào tư duy và ý muốn còn bị phân biệt
thì điều ngược lại mới là đúng thật; và lý tính tư duy, với tư cách là ý chí, là lý
tính tự quyết định lấy sự hữu hạn của mình.
Giảng thêm (H)
Một ý chí không lấy quyết định về điều gì cả thì không phải là một ý chí hiện thực;
người không có tính cách không bao giờ có thể quyết định về bất kỳ việc gì. Lý do
của sự trù trừ bất quyết như thế có thể nằm ở trong một sự nhạy cảm quá đáng nào
đó của tâm hồn vì biết rằng khi tự xác định điều gì, nó sẽ đi vào trong lĩnh vực của
sự hữu hạn, tự đặt một giới hạn cho mình và từ bỏ sự vô hạn: nó thực sự không
muốn chối bỏ tính toàn thể mà nó muốn hướng tới. Một tâm hồn như thế là một
tâm hồn chết, cho dù có thể là một tâm hồn đẹp[4]. Như Goethe đã nói: “Ai muốn
làm nên việc lớn, phải biết tự giới hạn chính mình”[5]. Chỉ qua việc lấy quyết định,
con người mới có thể đi vào hiện thực, cho dù tiến trình này có cay đắng đến đâu
đi nữa, vì lẽ sự trì trệ ắt không chịu rời khỏi sự nghiền ngẫm ủ ê trong nội tâm
hòng duy trì một khả thể phổ biến dành riêng cho chính mình. Song, khả thể thì
chưa phải là hiện thực. Vì thế, ý chí tự xác tín về chính mình sẽ không hề đánh mất
mình trong việc tự xác định.
§14
Thuần túy về phương diện hình thức, ý chí hữu hạn là cái Tôi vô hạn tự-phản
tư và tồn tại nơi-chính-mình (§5). | Với tư cách ấy, nó [ý chí hữu hạn] đứng lên
trên nội dung của nó, tức đứng lên trên những động cơ bản năng khác nhau
cũng như đứng lên trên những phương thức cá biệt của việc hiện thực hóa và
thỏa mãn những động cơ ấy. | Đồng thời, vì lẽ nó chỉ là vô hạn về mặt hình
thức, nên nó bị cột chặt với nội dung này như với những quy định của bản
tính tự nhiên và của hiện thực bên ngoài của nó (§§6 và 11), nhưng, do nó là
bất định, nó không bị ràng buộc với nội dung đặc thù này hay với nội dung
đặc thù kia. Trong chừng mực đó, nội dung này chỉ là một nội dung khả hữu
cho sự phản tư của cái Tôi vào trong mình; nội dung này có thể là mà cũng có
thể không phải là nội dung của tôi. Và cái Tôi là khả thể của việc tự-quy định
thành nội dung này hay nội dung khác, có nghĩa là khả thể của việc lựa chọn
giữa những quy định, mà, xét từ phương diện này, đối với cái Tôi, những quy
định ấy là những quy định ngoại tại[6].
§15
Dựa theo sự quy định trên đây, sự tự do của ý chí chỉ là sự tùy tiện vốn bao
hàm hai phương diện: một mặt, là sự phản tư tự do trừu tượng hóa khỏi mọi
sự, và, mặt khác, là sự lệ thuộc vào một nội dung hay một chất liệu được mang
lại từ bên trong hay từ bên ngoài. Vì lẽ nội dung này – tất yếu tự-mình như là
mục đích – đồng thời được quy định như một nội dung khả hữu đối lập lại với
sự phản tư tự do, nên sự tùy tiện chính là sự ngẫu nhiên, bất tất trong hình
thái của ý chí.
Sự hình dung thông thường nhất mà ta có về sự tự do chính là hình dung về
sự tùy tiện: đó là cái trung gian của sự phản tư ở giữa một bên là ý chí xét như
đơn thuần bị quy định bởi động lực bản năng tự nhiên và bên kia là ý chí tự
do tự-mình-và-cho-mình. Khi ta nghe nói rằng tự do nói chung có nghĩa là
muốn làm gì thì làm thì sự hình dung như thế chỉ có nghĩa là thiếu thốn hoàn
toàn việc đào tạo về tư tưởng, chưa có một chút hiểu biết gì về ý chí tự-mình-
và-cho-mình, về pháp quyền, về đạo đức v.v Sự phản tư, tính phổ biến và
tính thống nhất [đơn thuần] hình thức của Tự-ý thức mới chỉ là sự xác tín
trừu tượng của ý chí về sự tự do của mình, nhưng chưa phải là chân lý [sự
thật] của sự tự do này, bởi nó chưa có bản thân nó như là nội dung và mục
đích, khiến cho phương diện chủ quan vẫn còn là một cái gì khác với phương
diện khách quan; vì thế, nội dung của sự tự-quy định này cũng vẫn chỉ hoàn
toàn là một cái hữu hạn. Thay vì là ý chí trong chân lý của nó, thì có thể nói,
sự tùy tiện là ý chí xét như sự mâu thuẫn.
- Trong cuộc tranh cãi nảy sinh chủ yếu ở thời kỳ [thịnh hành] của Siêu
hình học của Wolff trước câu hỏi liệu ý chí có thực sự tự do hay không hoặc
phải chăng cái biết về sự tự do của nó chỉ là một ảo tưởng thì thực ra trong
đầu họ chỉ nghĩ tới sự tùy tiện[7]. Thuyết tất định đã có lý khi lấy nội dung đặt
đối lập lại với sự xác tín của sự tự-quy định trừu tượng nói trên, bởi nội dung
này – xét như một nội dung có sẵn – không được chứa đựng trong sự xác tín
ấy, và, vì thế, đến với sự xác tín từ bên ngoài, – cho dù cái “từ bên ngoài” nói
ở đây là động lực bản năng, là sự hình dung, hay nói chung, là bất cứ cái gì
lấp đầy ý thức nhưng theo kiểu: nội dung này không phải là cái gì được rút ra
từ hoạt động tự-quy định tự do xét như sự tự-quyết tự do. Theo đó, vì lẽ chỉ
duy có yếu tố hình thức của sự tự-quy định tự do là nội tại trong sự tùy tiện,
trong khi đó, yếu tố khác lại là cái gì được mang lại cho nó, cho nên sự tùy
tiện có thể được gọi là một ảo tưởng lừa dối, nếu nó được giả định là tương
đương với sự tự do. Trong mọi nền triết học-phản tư – như trong triết học của
Kant và sau này là của Fries với sự điều chỉnh rất nông cạn triết học của Kant
–, thì sự tự do không gì khác hơn là sự tự-hoạt động [đơn thuần] hình thức nói
ở trên đây[8].
Giảng thêm (H)
Vì lẽ tôi có thể tự-quy định chính mình theo cách này hoặc theo cách khác, nghĩa
là, vì lẽ tôi có thể lựa chọn, nên tôi có sự tùy tiện mà người ta thường quen gọi là
sự tự do. Sự lựa chọn của tôi nằm ở trong tính phổ biến của ý chí, qua đó tôi có thể
biến điều này hay điều kia thành cái của tôi. Cái “của tôi” này là một nội dung đặc
thù và, vì thế, là không tương thích với tôi, tức, tách rời khỏi tôi và chỉ là cái của
tôi ở trong khả thể, giống hệt như tôi chỉ là khả thể trong việc kết hợp với nó. Thế
nên, sự lựa chọn nằm ở trong sự bất định của cái Tôi và trong sự bị quy định-nhất
định của một nội dung. Vì gắn liền với nội dung này nên ý chí không phải là tự do,
dù nó có phương diện của tính vô hạn ở trong chính mình một cách đơn thuần hình
thức: không có nội dung nào là tương ứng với ý chí, và ý chí cũng không đích thực
là chính nó ở trong bất kỳ nội dung nào. Trong sự tùy tiện vốn bao hàm điều sau
đây: nội dung không được quy định như là “của tôi” bởi bản tính của ý chí của tôi,
mà bởi sự ngẫu nhiên, bất tất; có nghĩa là, tôi cũng bị phụ thuộc vào nội dung này,
và đó chính là sự mâu thuẫn nằm ngay trong sự tùy tiện. Con người bình thường
tưởng rằng mình là tự do, khi được phép hành động một cách tùy tiện, nhưng,
chính ngay trong sự tùy tiện đã ngụ ý rằng con người là không tự do. Nếu tôi muốn
điều gì hợp-lý tính thì tôi không hành động với tư cách cá nhân đặc dị mà tuân theo
những Khái niệm của trật tự đạo đức nói chung: trong một hành vi đạo đức, tôi
không khẳng định giá trị của chính mình, mà của Sự việc. Trong khi đó, người nào
làm điều gì trái ngược thì họ làm nổi bật tính đặc dị của họ lên. Cái hợp-lý tính là
đại lộ mà ai ai cũng đi chứ không dành riêng cho kẻ nào cả. Khi những nhà nghệ sĩ
lớn hoàn thành một tác phẩm, ta có thể nói: nó phải như thế thôi, nghĩa là, tính đặc
dị của nhà nghệ sĩ hoàn toàn tiêu biến và không còn thấy lồ lộ trong đó “phong
cách” [đặc dị] nào cả. Phidias không có “phong cách”, trong khi đó, bản thân hình
thể lại sống thực và xuất lộ. Người nghệ sĩ càng tồi thì ta càng thấy rõ mồn một
bản thân anh ta với tính đặc dị và sự tùy tiện[9]. Nếu ta dừng việc tìm hiểu ở sự tùy
tiện, tức ở năng lực của con người có thể muốn điều này hay điều nọ, thì quả nó
cũng tạo nên sự tự do; nhưng nếu ta nhớ kỹ rằng nội dung của điều người ấy muốn
là nội dung được mang lại [từ bên ngoài], thì người ấy thực ra bị nội dung ấy quy
định và chính trong phương diện này, người ấy không còn được tự do nữa.
§16
Bất cứ điều gì được ý chí quyết định lựa chọn (§14) thì nó cũng có thể từ bỏ đi
(§5). Nhưng, chính với khả thể vượt ra khỏi bất kỳ nội dung nào để thay thế
nó bằng một nội dung khác và cứ thế đến vô tận, ý chí không thoát khỏi sự
hữu hạn, bởi bất kỳ nội dung nào như thế cũng đều khác biệt với hình thức
[của ý chí], và, vì thế, là hữu hạn; và, cái đối lập lại với tính quy định – tức
tính bất định, tính bất quyết hay sự trừu tượng – cũng chỉ là một mômen
khác, không kém phần phiến diện mà thôi.
§17
Sự mâu thuẫn – chính là ý chí tùy tiện như đã nói ở §15 – tạo ra vẻ ngoài như
là một phép biện chứng của những động lực bản năng và xu hướng: chúng
xung đột với nhau vì việc thỏa mãn cái này đòi hỏi phải hạ thấp hay hy sinh
việc thỏa mãn cái kia v.v; và vì lẽ động lực bản năng chỉ là một định hướng
đơn giản của tính quy định của ý chí, do đó, có chuẩn mực ở trong chính nó,
khiến cho việc xác định cái nào là thứ yếu hay phải được hy sinh là quyết định
ngẫu nhiên, bất tất của sự tùy tiện: hoặc được hướng dẫn bởi việc tính toán
của đầu óc xem động lực bản năng nào sẽ mang lại sự thỏa mãn lớn hơn hoặc
bởi bất kỳ sự xem xét tùy tiện nào khác.
Giảng thêm (H)
Những động cơ bản năng và những xu hướng thoạt đầu là nội dung của ý chí, và
chỉ có sự phản tư [sự suy nghĩ] là đứng bên trên chúng. | Thế nhưng, bản thân
những động cơ (Triebe) này cũng có tính thúc đẩy (treibend); chúng xô lấn nhau,
xung đột với nhau và tất cả chúng đều muốn được thỏa mãn. Nếu tôi gạt hết tất cả
sang một bên và chỉ hiến mình cho một cái trong chúng, tôi lại rơi vào trong một
sự hạn chế có tính hủy hoại, bởi như thế là tôi đã từ bỏ tính phổ biến của tôi vì tính
phổ biến là một hệ thống gồm toàn bộ mọi động cơ. Việc đặt một số động cơ này
bên dưới những động cơ khác – điều mà giác tính thường làm – cũng chẳng giúp
được gì, vì ở đây, ta không có một chuẩn mực cho sự sắp xếp ấy, và, do đó, việc
đòi hỏi một trật tự như thế rút cục chỉ dẫn đến những khẳng quyết chung chung,
chán phèo mà thôi[10].
§18
Về việc đánh giá những động cơ bản năng thì vẻ ngoài của phép biện chứng ở
đây cho thấy: xét như là nội tại, tức, tích cực, những quy định của ý chí trực
tiếp là tốt, nên bảo rằng con người có bản tính thiện. Nhưng, trong chừng mực
chúng là những sự quy định của [bản tính] tự nhiên, đối lập lại với sự tự do và
với Khái niệm về Tinh thần, và, vì thế, là tiêu cực, thì chúng cần phải bị tận
diệt, nên bảo rằng con người có bản tính ác. Trong tình hình ấy, việc quyết
định lựa chọn khẳng quyết nào trong cả hai đều tùy thuộc vào sự tùy tiện chủ
quan như nhau mà thôi[11].
Giảng thêm (H)
Học thuyết Kitô giáo về bản tính ác của con người đứng cao hơn quan niệm về bản
tính thiện. Lý giải về mặt triết học, học thuyết ấy cần được hiểu như sau: với tư
cách là Tinh thần, con người là một hữu thể tự do, có năng lực không để mình bị
những động cơ tự nhiên quy định. Vì thế, ở trong tình trạng trực tiếp và thô lậu,
con người có thể không chịu để mình cứ sống mãi như thế và phải tự giải thoát
chính mình. Đó chính là ý nghĩa của học thuyết về tội lỗi nguyên thủy, mà nếu
không có nó, Kitô giáo ắt không phải là một nền tôn giáo của sự tự do.
§19
Cơ sở cho đòi hỏi phải tinh lọc những động cơ bản năng là quan niệm chung
rằng: phải giải thoát chúng khỏi hình thức của tính quy định tự nhiên, trực
tiếp cũng như khỏi tính chủ quan và tính bất tất của nội dung và quy chúng về
lại với bản chất thực thể. Điều đúng đắn [hay chân lý] của đòi hỏi mơ hồ này
chính là ở chỗ: những động cơ bản năng cần phải trở thành hệ thống hợp-lý
tính của sự quy định ý chí. | Như thế, việc lĩnh hội chúng bằng Khái niệm
chính là nội dung của Khoa học về Pháp quyền.
Người ta có thể trình bày nội dung của môn học này dựa theo mọi mômen cá
biệt của nó như pháp quyền, sở hữu, luân lý, gia đình, nhà nước v.v trong
hình thức đại loại: con người, do bản tính tự nhiên, có động cơ bản năng
hướng đến pháp quyền, rồi cũng có động cơ hướng đến sở hữu, đến luân lý,
và cũng có động cơ bản năng hướng đến ái tình nhục dục, đến tính hợp quần
v.v. và v.v Còn nếu người ta muốn ban cho hình thức của môn tâm lý học
thường nghiệm này một hình thái triết học cao nhã hơn thì, theo những gì đã
và đang còn được gọi là triết học (như đã nhận xét trước đây), người ta có thể
đạt được điều này một cách rẻ tiền bằng cách đơn giản tuyên bố rằng con
người tìm thấy trong chính mình – như là sự kiện của ý thức – ý muốn về
pháp quyền, về sở hữu, về nhà nước v.v([12]). Cùng một nội dung ấy – xuất
hiện ở đây trong hình thái của động cơ bản năng – sẽ tái hiện sau này trong
hình thức khác, đó là hình thức của những nghĩa vụ hay bổn phận[13].
§20
Khi phản tư [suy nghĩ] về các động cơ bản năng, tức khi hình dung, tính toán,
so sánh chúng với nhau, rồi với những phương tiện, hệ quả v.v của chúng,
cũng như với cái tổng cộng của sự thỏa mãn – tức của hạnh phúc –, sự phản tư
mang lại tính phổ biến hình thức cho chất liệu này và, bằng cách ngoại tại như
thế, thanh lọc chất liệu ra khỏi sự thô lậu và dã man. Việc thúc đẩy tính phổ
biến của tư duy là giá trị tuyệt đối của sự đào luyện văn hóa (Xem thêm:
§187).
Giảng thêm (H)
Trong hạnh phúc, tư tưởng đã có một ít quyền lực đối với sức mạnh tự nhiên của
những động cơ bản năng, bởi nó không chịu vừa lòng với phút giây trước mắt mà
đòi hỏi một cái toàn bộ của hạnh phúc. Điều này gắn liền với sự đào luyện văn hóa,
trong chừng mực sự đào luyện văn hóa cũng khẳng định giá trị cho một cái phổ
biến. Nhưng, có hai mômen ở trong lý tưởng về hạnh phúc: thứ nhất, một cái phổ
biến đứng cao hơn mọi tính đặc thù; nhưng, thứ hai, vì lẽ nội dung của cái phổ biến
này, đến lượt nó, lại chỉ đơn thuần là sự hưởng thụ phổ biến, nên cái cá biệt và cái
đặc thù, tức cái hữu hạn, lại tái xuất hiện và ta buộc phải quay trở lại với động cơ
bản năng. Vì nội dung của hạnh phúc nằm trong tính chủ quan và sự cảm nhận của
mỗi người, nên bản thân mục đích phổ biến này cũng là đặc dị, nên trong nội dung
này cũng chưa có mặt sự thống nhất đúng thật giữa nội dung và hình thức.
§21
Tuy nhiên, chân lý [sự thật] của tính phổ biến [đơn thuần] hình thức này – tức
của tính phổ biến còn bất định nơi chính nó và có tính quy định trong chất
liệu nói trên – lại là tính phổ biến tự-quy định, là ý chí hay là sự tự do. Khi ý
chí lấy tính phổ biến, hay lấy bản thân nó như là hình thức vô hạn làm nội
dung, đối tượng và mục đích, thì nó không chỉ là tự do một cách tự-mình mà
còn cho-mình: nó chính là Ý niệm trong chân lý của nó[14].
Tự-ý thức của ý chí – như là sự ham muốn, động cơ bản năng – là cảm tính,
giống như [lĩnh vực] cái cảm tính nói chung biểu thị tính ngoại tại, và, qua đó,
biểu thị sự tồn tại-ở-bên-ngoài-mình của Tự-ý thức. [Trong khi đó], ý chí
phản tư có hai yếu tố: yếu tố cảm tính và tính phổ biến [của] tư duy: ý chí tồn
tại tự-mình-và-cho-mình lại có bản thân ý chí làm đối tượng, và như thế là có
bản thân mình trong tính phổ biến thuần túy của nó. | Tính phổ biến này có
đặc điểm: bên trong nó, tính trực tiếp của cái tự nhiên lẫn tính đặc dị – mà cái
tự nhiên vốn gắn liền khi nó được sự phản tư tạo ra – đã được vượt bỏ. Sự
vượt bỏ [tính đặc dị] này và việc nâng [tính đặc dị] lên thành cái phổ biến
chính là cái được gọi là hoạt động của tư duy. Tự-ý thức tinh lọc và nâng đối
tượng, nội dung và mục đích của nó lên tính phổ biến này làm việc với tư
cách là tư duy tự khẳng định mình ở trong ý chí. Đây chính là điểm cho thấy
rõ rằng ý chí chỉ là ý chí tự