Khoáng vật sét trong đá trầm tích Miocen và trầm tích sông được thu thập
từ lưu vực sông Ba thuộc khu vực Nam Trung Bộ, Việt Nam, dùng để xác
định các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phong hóa trong Miocen và thời
điểm hiện tại ở khu vực nghiên cứu. Kết quả phân tích cho thấy, trong các
đá trầm tích Miocen có nguồn gốc từ đá andesit và ryolit có chứa smectit
cao (trung bình 72%) với kaolinit trung bình (24%), trong khi đá trầm
tích Miocen có nguồn gốc từ đá felsic lại điển hình bằng kaolinit cao (65%)
với smectit trung bình (25%). Các trầm tích sông (trầm tích hiện đại)
được đặc trưng bởi hàm lượng smectit (43%) và kaolinit (37%) trung
bình. Kết quả phân tích sự hình thành, đặc điểm phân bố điển hình của tổ
hợp khoáng sét trong lưu vực sông Ba có thể do sự xuất hiện phổ biến của
các đá xâm nhập felsic và đá phun trào cùng với hoạt động kiến tạo nâng
lên yếu ớt và khí hậu nhiệt đới gió mùa Đông Á trong thời kỳ Miocen và
trong thời điểm hiện tại. Điều này cho thấy rằng, thành phần thạch học
của đá và điều kiện gió mùa Đông Á là những yếu tố quan trọng kiểm soát
quá trình phong hóa, trong khi đó yếu tố kiến tạo chỉ đóng vai trò thứ yếu
ở lưu vực sông Ba.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 696 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phong hóa ở lưu vực sông Ba, Nam Trung Bộ trên nghiên cứu tổ hợp khoáng vật sét, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất số Tập 60, Kỳ 5 (2019) 1 - 10 1
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phong hóa ở lưu vực sông
Ba, Nam Trung Bộ trên nghiên cứu tổ hợp khoáng vật sét
Phạm Như Sang *, Khương Thế Hùng, Tạ Thị Toán, Phan Thị Thanh Hiền, Đỗ Mạnh
An, Bùi Thanh Tịnh
Khoa Khoa học và Kỹ thuật Địa chất, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Quá trình:
Nhận bài 31/07/2019
Chấp nhận 10/9/2019
Đăng online 31/10/2019
Khoáng vật sét trong đá trầm tích Miocen và trầm tích sông được thu thập
từ lưu vực sông Ba thuộc khu vực Nam Trung Bộ, Việt Nam, dùng để xác
định các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phong hóa trong Miocen và thời
điểm hiện tại ở khu vực nghiên cứu. Kết quả phân tích cho thấy, trong các
đá trầm tích Miocen có nguồn gốc từ đá andesit và ryolit có chứa smectit
cao (trung bình 72%) với kaolinit trung bình (24%), trong khi đá trầm
tích Miocen có nguồn gốc từ đá felsic lại điển hình bằng kaolinit cao (65%)
với smectit trung bình (25%). Các trầm tích sông (trầm tích hiện đại)
được đặc trưng bởi hàm lượng smectit (43%) và kaolinit (37%) trung
bình. Kết quả phân tích sự hình thành, đặc điểm phân bố điển hình của tổ
hợp khoáng sét trong lưu vực sông Ba có thể do sự xuất hiện phổ biến của
các đá xâm nhập felsic và đá phun trào cùng với hoạt động kiến tạo nâng
lên yếu ớt và khí hậu nhiệt đới gió mùa Đông Á trong thời kỳ Miocen và
trong thời điểm hiện tại. Điều này cho thấy rằng, thành phần thạch học
của đá và điều kiện gió mùa Đông Á là những yếu tố quan trọng kiểm soát
quá trình phong hóa, trong khi đó yếu tố kiến tạo chỉ đóng vai trò thứ yếu
ở lưu vực sông Ba.
© 2019 Trường Đại học - Địa chất. Tất cả các quyền được đảm bảo.
Từ khóa:
Phong hóa hóa học,
Phong hóa vật lý,
Khoáng vật sét,
Lưu vực sông Ba,
Gió mùa Đông Á.
1. Đặt vấn đề
Khoáng vật sét là sản phẩm của quá trình
phong hóa vật lý và phong hóa hóa học từ các loại
đá trên bề mặt trái đất. Quá trình này có liên quan
mật thiết với các yếu tố điều kiện khí hậu, thành
phần thạch học của đá và các hoạt động kiến tạo
(Chamley, 1989). Các sản phẩm phong hóa từ đá
aluminosilicat được sử dụng rộng rãi để đánh giá
cơ chế của quá trình phong hóa (Colin et al., 2006;
Liu et al., 2007). Những sản phẩm phong hóa này
được vận chuyển, lắng đọng tại các lưu vực sông
và trở thành nơi lưu giữ các thông tin về quá trình
phong hóa của các đá có trước theo dòng lịch sử
địa chất. Nghiên cứu về các trầm tích sông có thể
góp phần hiểu biết hơn về sự biến đổi của đá gốc
trên bề mặt trái đất. Bên cạnh đó, cơ chế của quá
trình phong hóa ở các lưu vực sông gần biển có
liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của trầm tích _____________________
*Tác giả liên hệ.
E - mail: phamnhusang@humg.edu.vn
2 Phạm Như Sang và nnk./ Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (5), 1 - 10
dưới đáy đại dương (Liu et al., 2004; Colin et al.,
2010; Clift et al., 2014). Do đó, nhiều nghiên cứu
đã được thực hiện dựa trên các trầm tích sông để
đánh giá các quá trình phong hóa nhằm góp phần
giải quyết những vấn đề về vỏ phong hóa trên lục
địa và những nghiên cứu xa hơn về sự tác động
qua lại giữa lục địa và đại dương. Điển hình của các
nghiên cứu quanh khu vực Biển Đông có thể kể
đến như lưu vực sông Châu Giang ở Nam Trung
Hoa, sông Hồng, sông Mê Kông và sông Giành ở
bán đảo Đông Dương (Liu et al., 2007; Jonell et al.,
2016), những lưu vực sông ở đảo Hải Nam, Đài
Loan, Luzon Philippines, bán đảo Malay, Borneo
và Sumatra (Selvaraj và Chen, 2006; Wang et al.,
2011; Liu et al., 2008, 2009, 2012; Hu et al., 2014).
Ở Việt Nam có hệ thống sông ngòi khá phát triển
với các lưu vực sông lớn như sông Mê Kông ở miền
Nam, sông Hồng ở miền Bắc và các lưu vực sông
nhỏ hơn ở miền Trung như sông Ba, sông Đồng
Nai, sông Hàn, Các sông lớn như sông Mê Kông
và sông Hồng đã được nhiều nhà địa chất quan
tâm nghiên cứu, tuy nhiên những nghiên cứu các
sông nhỏ ở miền Trung còn khá hạn chế. Nhìn
chung, các con sông ở miền Trung Việt Nam được
đặc trưng bởi lưu vực sông hẹp và dốc. Theo
nghiên cứu của Schimanski và Stattegger (2005)
thì đây là nguồn cung cấp chủ yếu vật liệu trầm
tích cho thềm lục địa miền Trung Việt Nam. Do đó,
các lưu vực sông ở miền Trung Việt Nam là nơi có
ý nghĩa quan trọng để đánh giá cơ chế quá trình
phong hóa của các đá gốc trên lục địa và môi
trường trầm tích trên thềm lục địa miền Trung
cũng như môi trường cổ khí hậu liên quan.
Hình 1. Vị trí lưu vực sông Ba ở Nam Trung Bộ, Việt Nam.
Phạm Như Sang và nnk./ Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (5), 1 - 10 3
Ở khu vực Nam Trung Bộ, sông Ba là con sông
lớn nhất với diện tích thoát nước khoảng 14x103
km2 và chiều dài 390 km (Hình 1, 2). Sông Ba cung
cấp lượng trầm tích lơ lửng khoảng 1106 tấn/năm
cho Biển Đông (Milliman and Farnsworth, 2011).
Phần thượng lưu của lưu vực sông Ba nằm chủ yếu
trên vùng Tây Nguyên, bao gồm một loạt các cao
nguyên tiếp giáp với độ cao trung bình khoảng
800 m. Thành phần thạch học của lưu vực bao
gồm chủ yếu là đá biến chất, đá magma xâm nhập
và phun trào, đá trầm tích chiếm lượng nhỏ (Hình
2A). Các đá biến chất có thành phần khác nhau và
chúng được xếp vào tuổi Akei đến Proterozoi
(Trần Văn Trị, Vũ Khúc, 2009). Các thành tạo xâm
nhập chủ yếu là granit, granodiorit và diorit được
xếp vào tuổi Paleozoi sớm đến Mesozoi (Trần Đức
Lương, Nguyễn Xuân Bao, 1988; Nam, 1998; Lan,
et al., 2003; Nakano et al., 2007; Lepvrier et al.,
2008). Các đá phun trào tuổi Trias sớm và kỷ
Kreta phủ rộng rãi khu vực nghiên cứu, bao gồm
chủ yếu là ryolit, dacit, andesit và felsit (Nam et al.,
2001). Đá trầm tích Miocen xuất hiện hạn chế dọc
theo sông Ba trong Miocen giữa và muộn, chúng
có chứa đá cuội, đá silic, đá sét và than (Nielsen et
al., 2007; Hình. 2A). Đá bazan bao phủ khu vực này
có tuổi Neogen-Đệ tứ (Hoang and Flower, 1998;
Carter et al., 2000; Hoang et al., 2013). Trầm tích
Holocen phân bố chủ yếu dọc theo sông và bờ
biển. Lưu vực sông Ba được đặc trưng bởi khí hậu
nhiệt đới gió mùa Đông Á, với 2 mùa khô và mùa
mưa rõ rệt. Sự thay đổi nhiệt độ và lượng mưa ở
Nha Trang được lấy từ dữ liệu khí hậu thế giới với
lượng mưa trung bình hàng năm là 1300 mm
(Hình 3). Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng
12 với lượng mưa trung bình hàng tháng là 249
mm (gần 75%) và nhiệt độ 26,0°C.
Hình 2. (A) Sơ đồ địa chất lưu vực sông Ba, Nam Trung Bộ, Việt Nam được chỉnh sửa từ bản đồ địa chất
1:500.000 (Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao, 1988). 1. Trầm tích Holocen: 2. Đá basal tuổi Neogen - Đệ Tứ,
3. Đá trầm tích tuổi Miocen, 4. Đá phun trào tuổi Mesozoi, 5. Đá xâm nhập felsic tuổi Paleo - Mesozoi; 6. Đá biến
chất tuổi tiền Cambrian; 7. Sông. (B) Vị trí mẫu sử dụng trong nghiên cứu, hàm lượng trung bình của các
khoáng vật sét, lưu vực sông Ba được thể hiện bằng màu xám. MA. Mẫu đá trầm tích Miocen chứa nhiều
andesit và ryolit; MF. Mẫu đá trầm tích Miocen chứa nhiều felsic; MS. Mẫu trầm tích sông.
4 Phạm Như Sang và nnk./ Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (5), 1 - 10
Mùa khô được đặc trưng bằng lượng mưa
thấp (trung bình hàng tháng ~ 41 mm, gần 25%)
với nhiệt độ không thay đổi nhiều (trung bình
hàng tháng 26,9°C) giữa tháng 1 và tháng 8.
Trong nghiên cứu này, tổ hợp khoáng vật sét
của đá trầm tích Miocen và trầm tích sông được
thu thập từ lưu vực sông Ba ở khu vực Nam Trung
Bộ để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
phong hóa trong Miocen và thời điểm hiện tại.
2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu
27 mẫu đá trầm tích được thu thập từ đá trầm
tích Miocen (hệ tầng Sông Ba) và chúng được chia
thành hai loại: mẫu đá trầm tích Miocen andesit
(thành phần chủ yếu có nguồn gốc từ đá phun trào
andesit và ryolit-MA) và mẫu đá trầm tích Miocen
felsic (thành phần chủ yếu có nguồn gốc từ đá xâm
nhập felsic-MF) (Bảng 1, Hình 2B). 07 mẫu trầm
tích sông (MS) được thu thập tại các địa điểm khác
nhau dọc theo sông Ba để đại diện cho các trầm
tích của lưu vực này (Bảng 1, Hình 2B). Trong số
đó, hai mẫu (SB13 và SB14) từ phần thấp hơn của
kênh chính đại diện cho các thành phần trung lưu
của trầm tích sông Ba; trong khi ba mẫu (SB04,
SB06 và SB15) từ kênh chính và hai mẫu khác
(SB16 và SB29) từ nhánh của phạm vi trung lưu
đại diện cho môi trường trung lưu của lưu vực
sông Ba. Khoáng vật sét được phân tích bằng
phương pháp nhiễu xạ tia X - XRD (X-ray
diffraction) cho tất cả các mẫu đá trầm tích và
trầm tích sông tại Phòng thí nghiệm của Trường
Đại học Đồng Tế, Thượng Hải, Trung Quốc.
3. Kết quả
Các mẫu đá trầm tích Miocen andesit (MA)
chứa smectit cao (59÷97%, trung bình 70%),
kaolinit trung bình (1÷37%, trung bình 26%), và
illit thấp (0÷9%, trung bình 4%) (Bảng 1; Hình
2B). Các mẫu đá trầm tích Miocen felsic (MF) được
đại diện bởi kaolinit cao (49÷78%, trung bình
65%) và smectit vừa phải (2÷48%, trung bình
25%), với illit thấp (2÷18%, trung bình 7%) và
clorit hiếm (0÷16%, trung bình 3%) (Bảng 1; Hình
2B). Các mẫu trầm tích sông (MS) chứa smectit
(32÷56%, trung bình 43%) và kaolinit vừa phải
(23÷43%, trung bình 37%), với illit (8÷14%,
trung bình 11%) và clorit thấp (0÷12%, trung
bình 9%) (Bảng 1; Hình 2B). Tinh thể smectit cho
thấy các giá trị thấp trong tất cả các mẫu đá trầm
tích Miocen andesit (0,72÷1,21o∆2θ), các mẫu đá
trầm tích Miocen felsic (0,31÷1,80o∆2θ) và các
mẫu trầm tích sông (1,01÷1,16o∆2θ) (Bảng 1).
4. Thảo luận
Sự hình thành khoáng sét trong lưu vực sông
thường liên quan chặt chẽ đến cơ chế của quá
trình phong hóa, chúng bị chi phối mạnh mẽ bởi
các điều kiện khí hậu thông qua nhiệt độ và lượng
mưa, thành phần thạch học của đá và hoạt động
kiến tạo (Chamley, 1989; Liu et al., 2007). Quá
trình phong hóa hóa học làm thay đổi thành phần
của đá gốc bằng cách thủy phân các khoáng chất
và tạo ra khoáng vật sét thứ sinh. Smectit và
kaolinit là hai khoáng vật điển hình trong các sản
phẩm phong hóa này. Smectit thường liên quan
đến phong hóa hóa học của đá phun trào, đây là
loại đá bị phong hóa nhanh hơn hầu hết các loại đá
khác trong điều kiện khí hậu ấm và ẩm (Bluth and
Kump, 1994; Dessert et al., 2001). Trong sản
phẩm phong hóa của đá phun trào thường chứa
hàm lượng smectit cao, dễ dàng hình thành trên
các vật liệu cơ bản như các loại đá giàu Fe-Mg, và
trên các vật liệu ryolit (Chamley, 1989). Giống như
phần trung lưu và vùng hạ lưu của lưu vực sông
Mê Kông và các sông ở Luzon trong vùng khí hậu
nhiệt đới (Liu and et al, 2004, 2009), nơi đá phun
trào chiếm ưu thế, smectit được hình thành phổ
biến (Hình 4). Sự hình thành kaolinit đại diện cho
quá trình thủy phân mạnh trong điều kiện khí hậu
ấm và ẩm (Chamley, 1989). Kaolinit có thể dễ dàng
được sinh ra bởi đá gốc có chứa các khoáng vật
giàu nguyên tố kiềm (ví dụ: granit, granodiorit và
ryolit) (Chamley, 1989). Điển hình như lưu vực
Hình 3. Lượng mưa và nhiệt độ trung bình ở thành
phố Nha Trang từ năm 1898 đến năm 1990
(
Phạm Như Sang và nnk./ Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (5), 1 - 10 5
TT Mẫu Vị trí Vĩ độ (N) Kinh độ (E)
Smectit,
(%)
Illit, (%)
Clorit,
(%)
Kaolinit,
(%)
Tinh thể smectit,
(o∆2θ)
Mẫu trầm tích đá Miocen andesit (MA)
1 SB01 Phú Mỹ 13o21.354' 109o13.117’ 82 0 0 17 1.01
2 SB02 Kiến Thiết 13o05.971' 108o52.828' 97 1 0 1 0.88
3 SB03-2 Đèo Chư Se 13o36.531' 108o14.896' 61 1 0 37 0.72
4 SB05 Cầu Cây Sung 13o20.866' 108o28.784' 84 1 0 15 0.75
5 SB17 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 72 5 0 23 0.89
6 SB18 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 64 6 0 31 0.90
7 SB19 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 63 5 0 31 1.08
8 SB20 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 71 4 0 25 0.88
9 SB21 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 79 4 0 17 0.94
10 SB22 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 59 9 0 32 0.99
11 SB23 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 68 5 0 28 0.96
12 SB24 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 75 4 0 21 0.97
13 SB25 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 61 3 0 36 1.21
14 SB26 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 62 4 0 34 1.07
15 SB27 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 65 3 0 32 1.11
16 SB28 Cầu Phú Cần 13o11.085' 108o39.297' 66 3 0 31 1.17
Mẫu đá trầm tích Miocen felsic (MF)
17 SB03-1 Đèo Chư Se 13o36.531' 108o14.896' 48 2 0 50 0.85
18 SB07 Phủ Túc 13o10.925' 108o42.000' 2 9 16 75 0.61
19 SB08 Phủ Túc 13o10.925' 108o42.000' 17 7 0 76 1.70
20 SB09 Phủ Túc 13o10.925' 108o42.000' 19 5 0 77 1.46
21 SB010 Phủ Túc 13o10.925' 108o42.000' 33 7 0 60 0.96
22 SB011 Phủ Túc 13o10.925' 108o42.000' 34 4 0 62 1.30
23 SB012 Phủ Túc 13o10.925' 108o42.000' 46 4 0 50 0.97
24 SB030 Cầu Cây Sung 13o20.884' 108o27.644' 4 18 0 78 0.31
25 SB031 Quỳnh Phụ 13o17.965' 108o37.111' 8 6 13 74 0.67
26 SB032 Quỳnh Phụ 13o17.965' 108o37.111' 46 4 0 49 1.80
27 SB033 Quỳnh Phụ 13o17.965' 108o37.111' 24 10 0 66 0.94
Mẫu đá trầm tích sông (MS)
28 SB4 Buôn Hiao 13o22.266' 108o27.907' 46 8 6 41 1.16
29 SB6 Buôn Toat 13o18.332' 108o35.922' 47 10 8 35 1.01
30 SB13 Đinh Thọ 13o01.431' 109o13.761' 35 12 12 41 1.14
31 SB14 Hoa Huổi 13o00.308' 109o07.036' 32 14 12 43 1.01
32 SB15 Phú Cần 13o11.139' 108o39.378' 50 9 0 41 1.11
33 SB16 Phủ Túc 13o20.056' 108o37.782' 56 11 10 23 1.07
34 SB29 Kim Tân 13o30.711' 108o28.140' 39 13 11 37 1.03
sông Châu Giang trong điều kiện khí hậu cận nhiệt
đới, bán đảo Malay trong điều kiện khí hậu nhiệt
đới và đảo Hải Nam trong điều kiện khí hậu nhiệt
đới chứa nhiều đá xâm nhập felsic và/hoặc đá
phun trào felsic và kaolinit xuất hiện với hàm
lượng cao trong sản phẩm phong hóa (Liu et al.,
2007, 2012, 2016; Hình 4). Phong hóa vật lý dẫn
đến sự phá vỡ đá gốc, giai đoạn đầu của quá trình
phong hóa hóa học, quá trình thủy phân xảy ra yếu
có thể tạo thành các khoáng vật như illit và clorit.
Phong hóa vật lý mạnh trong khi phong hóa hóa
học yếu xảy ra trong điều kiện khí hậu tương đối
lạnh và khô, hoặc có điều kiện kiến tạo nâng trồi
mạnh mẽ tạo điều kiện cho xói mòn phát triển vì
vậy hạn chế quá trình phong hóa hóa học mạnh
(Chamley, 1989). Đặc trưng này có thể thấy ở giàu
nguyên tố kiềm (ví dụ: granit, granodiorit và
ryolit) (Chamley, 1989). Điển hình như lưu vực
Bảng 1. Vị trí lấy mẫu và thành phần khoáng vật sét trong mẫu đá trầm tích Miocen và mẫu trầm tích lưu
vực sông Ba.
6 Phạm Như Sang và nnk./ Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (5), 1 - 10
phần thượng lưu của các lưu vực sông Mê Kông và
sông Hồng trong khí hậu cận nhiệt đới và kiến tạo
nâng trồi mạnh mẽ, các con sông ở Đài Loan và
phía Bắc Borneo trong điều kiện khí hậu nhiệt đới
nhưng lại có kiến tạo nâng trồi mạnh (Liu et al.,
2004, 2007, 2008, 2012), nơi mà đá gốc sản sinh
ra nhiều illit và clorit.
Thượng lưu của lưu vực sông Ba nằm trên
một loạt các cao nguyên tiếp giáp, nơi lớp phủ
phong hóa phát triển mạnh mẽ. Khu vực này được
đặc trưng bởi hoạt động kiến tạo nâng trồi tương
đối yếu trong giai đoạn từ Miocen đến Đệ tứ (Lan
et al., 2003; Lepvrier et al., 2008). Những điều này
cho thấy các đá gốc ở lưu vực sông Ba đã không bị
xói mòn đáng kể trong giai đoạn này. Ngoài ra, khu
vực này có khí hậu nhiệt đới gió mùa Đông Á với
lượng mưa lớn trong các tháng từ 9÷12 và nhiệt
độ ấm áp trong suốt cả năm (Hình 3). Theo Wei
and et al. (2006), khí hậu gió mùa Đông Á trong
thời kỳ Miocen có nhiệt độ ấm hơn so với thời
điểm hiện tại. Do đó, điều kiện về hình thái, hoạt
động kiến tạo và khí hậu trong Miocen và thời
điểm hiện tại cho phép phát triển chủ yếu quá
trình phong hóa hóa học trong lưu vực sông Ba,
dẫn đến sự gia tăng các khoáng sét thứ sinh (ví dụ,
smectit và kaolinit).
Hàm lượng smectit trong các mẫu đá trầm
tích Miocen có sự biến đổi theo thành phần thạch
học đá gốc và nguồn gốc trầm tích, hàm lượng
smectite cao trong các trầm tích có chứa nhiều
andesit và ryolit (70%), thấp trong mẫu đá trầm
tích chứa nhiều felsic (25%), trầm tích nguổn gốc
sông có hàm lượng smectite trung bình (43%)
(Hình 2B và 4). Sự xuất hiện phong phú của đá
phun trào Mesozoi và đá bazan Neogen-Đệ tứ
trong lưu vực sông Ba có thể bị phong hóa để hình
thành chủ yếu smectit cho đá trầm tích Miocen và
trầm tích sông. Các mẫu của ở khu vực này thể
hiện các giá trị thấp của các tinh thể smectit (0,31-
1,80o∆2θ, trung bình 1,03o∆2θ) (Bảng 1), cho thấy
smectit kết tinh khá tốt đến rất tốt (Ehrmann et al.,
2005). Theo Chamley (1989) smectit xuất phát từ
các đá phun trào có thể tạo ra tinh thể smectit tốt
đến rất tốt.
Hình 4. Biểu đồ tập hợp khoáng vật sét của đá trầm tích Miocen andesit (MA), đá trầm tích Miocen felsic
(MF) và trầm tích sông (MS) trong lưu vực sông Ba. Hàm lượng trung bình khoáng vật sét ở sông Mê Kông,
sông Hồng, sông Châu Giang (Liu et al., 2007), sông ở Đài Loan (Liu et al., 2008), sông ở Luzon (Liu et al.,
2009), sông ở phía bắc Boneo và bán đảo Malay (Liu et al., 2012) và sông ở đảo Hải Nam (Liu et al., 2016).
Phạm Như Sang và nnk./ Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (5), 1 - 10 7
Như vậy, smectit trong lưu vực sông Ba được
hình thành chủ yếu từ các đá phun trào trong điều
kiện khí hậu nóng ẩm. Sự phân bố rộng rãi của đá
phun trào cùng với hoạt động kiến tạo nâng trồi
yếu ớt và điều kiện khí hậu ấm áp trong Miocen và
Đệ tứ có thể là lý do dẫn đến hàm lượng smectit
cao trong trầm tích lưu vực sông Ba.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng
kaolinit cao trong các mẫu đá trầm tích Miocen có
chứa thành phần chủ yếu từ đá felsic (65%), thấp
trong mẫu đá trầm tích Miocen có thành phần từ
đá andesit và ryolit (26%), trung bình trong các
mẫu trầm tích sông (37%) (Hình 2B và 4). Lưu vực
sông Ba chứa đá xâm nhập felsic phổ biến như
granodiorit, granit và đá phun trào felsic như
ryolit, dacit và felsit (Hình 2A), có thể là đá gốc
tiềm năng để sản sinh ra kaolinit cao trong các sản
phẩm phong hóa. Sự kết hợp của điều kiện khí hậu
và môi trường địa chất tạo điều kiện cho các quá
trình phong hóa hóa học phát triển ở khu vực này.
Do đó, khu vực nghiên cứu có đầy đủ các điều kiện
khí hậu (khí hậu ấm và ẩm), hoạt động kiến tạo
nâng trồi yếu ớt và đá gốc giàu các nguyên tố kim
loại Al, kiềm để tạo ra kaolinit trong đá trầm tích
Miocen và trầm tích sông ở lưu vực sông Ba.
Trong tất cả các mẫu nghiên cứu (bao gồm
trầm tích Miocen và các mẫu trầm tích sông) đều
thể hiện hàm lượng illit và clorit thấp (Hình 2B và
4). Như đã nói trên, trong suốt Miocen và Đệ Tứ
khu vực nghiên cứu có khí hậu ấm, ẩm thuận lợi
cho quá trình phong hóa xảy ra. Vì vậy sự phát
triển hạn chế vật liệu illite và chlorite có thể được
giải thích là do hoạt động kiến tạo nâng trồi yếu,
hoạt động phong hóa hóa học mạnh mẽ đã làm
giảm mạnh quá trình phong hóa vật lý, hạn chế sự
hình thành illit và clorit trong đá trầm tích Miocen
và trầm tích sông ở lưu vực sông Ba. Do đó, sự có
mặt của illit và clorit với hàm lượng thấp trong tất
cả các mẫu có khả năng liên quan đến sự xói mòn
vật lý yếu ở lưu vực sông Ba trong thời kỳ Miocen
và thời điểm hiện tại.
Bán đảo Đông Dương là nơi cung cấp một
lượng lớn trầm tích cho Biển Đông bởi lưu vực các
con sông lớn như sông Mê Kông, sông Hồng và các
sông nhỏ ở miền Trung Việt Nam (Liu et al., 2007,
2016; Milliman and Farmsworth, 2011), đặc biệt
là phần thềm lục địa Việt Nam và phía Tây Biển
Đông. Sự phân bố khoáng sét ở lưu vực sông Ba
cho thấy có sự khác biệt với thành phần tổ hợp
khoáng vật sét từ các sông Mê Kông và sông Hồng
(Hình 4). Sông Ba đặc trưng bằng hàm lượng
smectit (43%) và kaolinit (37%) trung bình, trong
khi hàm lượng illit (11%) và clorit (9%) thấp. Ở
sông Mê Kông và sông Hồng, tập hợp khoáng vật
sét chứa chủ yếu là illit (35÷43%), với kaolinit và
clorit ở mức trung bình (24÷28%) và smectit thấp
(6÷11%) (Liu et al., 2007). Kết quả nghiên cứu này
có là một kênh thôn