Chị em phụ nữ hãy tự giải phóng mình - Một luận điểm tích cực và sáng tạo của Hồ Chí Minh về quyền của phụ nữ

Tóm tắt Hồ Chí Minh sớm nhận thấy việc thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ, giải phóng họ khỏi những bất công phi lý là một trong những mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam. Người luôn đấu tranh, tạo điều kiện, khuyến khích và đưa ra nhiều chủ trương thiết thực để phụ nữ khẳng định vị thế của họ. Theo Hồ Chí Minh, thực hiện bình đẳng cho phụ nữ trên tất cả các phương diện về kinh tế, chính trị, gia đình và xã hội là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và xã hội. Thêm vào đó, khía cạnh tích cực trong quan điểm của Người đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ còn là, Người luôn kêu gọi và đặt ra đòi hỏi trước hết là, bản thân phụ nữ phải tự mình vươn lên, hăng hái, xung phong vượt qua mọi khó khăn trở ngại, khắc phục tâm lý tự ti, cam chịu, an phận. Đây là một yếu tố mang tính quyết định.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chị em phụ nữ hãy tự giải phóng mình - Một luận điểm tích cực và sáng tạo của Hồ Chí Minh về quyền của phụ nữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 7 (32) - Thaùng 9/2015 66 Chị em phụ nữ hãy tự giải phóng mình - Một luận điểm tích cực và sáng tạo của Hồ Chí Minh về quyền của phụ nữ Women to liberate themselves – A thesis positive and creative by Ho Chi Minh about the rights of women ThS. Lê Anh Thi Trường Đại học Tiền Giang M.A. Le Anh Thi The University of Tien Giang Tóm tắt Hồ Chí Minh sớm nhận thấy việc thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ, giải phóng họ khỏi những bất công phi lý là một trong những mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam. Người luôn đấu tranh, tạo điều kiện, khuyến khích và đưa ra nhiều chủ trương thiết thực để phụ nữ khẳng định vị thế của họ. Theo Hồ Chí Minh, thực hiện bình đẳng cho phụ nữ trên tất cả các phương diện về kinh tế, chính trị, gia đình và xã hội là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và xã hội. Thêm vào đó, khía cạnh tích cực trong quan điểm của Người đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ còn là, Người luôn kêu gọi và đặt ra đòi hỏi trước hết là, bản thân phụ nữ phải tự mình vươn lên, hăng hái, xung phong vượt qua mọi khó khăn trở ngại, khắc phục tâm lý tự ti, cam chịu, an phận. Đây là một yếu tố mang tính quyết định. Từ khóa: phụ nữ, giải phóng, tự giải phóng Abstract Ho Chi Minh early found that the implementation of equal rights for women, liberating them from the absurd injustice is one of the important objectives of Vietnam’s revolution. He was always fighting, facilitating, encouraging and providing practical guidelines for many women to assert their position. According to Ho Chi Minh, equality for women in all aspects of economy, politic, family and society is the responsibility of the Party, the State and society. In addition, the positive aspect of Ho Chi Minh’s views on women’s liberation was, he always asked for first requirement – women must rise up by themselves, eager and voluntary to overcome all obstacles, psychological inferiority. This is a crucial factor. Keywords: women, disenthral, liberate themselves 1. Trong “Bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật hôn nhân và gia đình” (năm 1959), Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [8, tr. 300]. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng, sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một cuộc cách mạng to lớn và khó khăn, LÊ ANH THI 67 đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài và bền bỉ. Vì vậy, muốn xóa bỏ tư tưởng lạc hậu ấy không phải đơn giản, nhanh chóng mà đòi hỏi cả một quá trình, sự quan tâm của toàn xã hội, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước. Bởi lẽ, đây không phải chỉ là việc giải quyết những mâu thuẫn tranh chấp giữa hai giới nữ và nam. Tuy nhiên, muốn thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ, theo Hồ Chí Minh, bản thân người phụ nữ phải xem đây là sự nghiệp của bản thân, tức sự nỗ lực tự giải phóng. Nhận thức được tầm quan trọng của sự nỗ lực tự giải phóng, Hồ Chí Minh đã nêu lên những biện pháp, những chỉ dẫn có tính định hướng nhằm giúp cho phụ nữ có thể giành lại những quyền lợi vốn phải có của mình trong xã hội. 2. Những biện pháp thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ được Hồ Chí Minh nêu ra rất cụ thể, thiết thực, đó là: Thứ nhất: Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ phải gắn liền với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hồ Chí Minh xác định rõ, muốn giải phóng phụ nữ thành công, phải gắn với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Người luôn yêu cầu Đảng và Nhà nước ta, cần đưa nhiệm vụ này vào chủ trương, chính sách, đồng thời phải có biện pháp và cách làm hiệu quả, định hướng kịp thời cho phụ nữ. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở các cấp lãnh đạo rằng, sau khi có chủ trương và chính sách hợp lý cho phụ nữ được bình quyền, thì phải triển khai chủ trương, đường lối ấy và thực hiện một cách cụ thể, thiết thực, nói đi đôi với làm, bám sát các hoạt động của phụ nữ, hướng dẫn, giúp đỡ họ tháo gỡ khó khăn. Như vậy, Đảng, Nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc cách mạng bình đẳng giới. Đối với các chính sách, pháp luật, cũng phải ban hành những điều luật phù hợp, giúp phụ nữ thoát khỏi những định kiến từ ngàn xưa, tạo sự bình đẳng cho hiện tại và tương lai. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo” [10, tr. 617]. Thứ hai: Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ là sự nghiệp của bản thân người phụ nữ. Năm 1956, Hồ Chí Minh nói: “Chiến sĩ phụ nữ còn ít, phụ nữ chiếm nửa số dân tộc mà cái gì cũng hiếm. Ta phải giúp đỡ. Nhưng không phải phụ nữ cứ ngồi khoanh tay ngồi chờ giúp đỡ, mà phải cố gắng” [6, tr. 295]. Như vậy, ngoài việc nhắc nhở Đảng, Nhà nước phải giúp đỡ để phụ nữ tiến bộ, thì theo Hồ Chí Minh, phụ nữ không được chỉ trông chờ vào các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mà phải tự đấu tranh giành lấy quyền lợi, khẳng định vị trí, vai trò của mình. Người nói: “V phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh” [7, tr. 301]. Như vậy, việc giành quyền bình đẳng, chống sự phân biệt đối xử với phụ nữ, không phải ai làm thay, mà chính phụ nữ phải vươn lên tự giải phóng, đứng lên đấu tranh cho quyền lợi của mình. Có như thế mới mong cuộc cách mạng mang lại bình quyền giữa nam và nữ sớm thành công. Người đã nêu lên những biện pháp giúp chị em phụ nữ có thể tự nỗ lực, giải phóng mình bằng cách: - Xóa bỏ tâm lý tự ti, cam chịu của bản thân và những định kiến của xã hội: Người cũng sớm thấy “Phụ nữ chúng ta còn một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình” [9, tr. 59]. Trong bài nói chuyện tại “Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ III”, CHỊ EM PHỤ NỮ HÃY TỰ GIẢI PHÓNG MÌNH - MỘT LUẬN ĐIỂM TÍCH CỰC VÀ ... 68 một lần nữa Người nhấn mạnh: “Phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại; phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật” [9, tr. 59]. Như vậy, Hồ Chí Minh không những rất tin vào năng lực phụ nữ, mà còn thức tỉnh chị em phụ nữ, giúp họ tin vào bản thân mình có thể làm được việc lớn, tự mình cởi bỏ những trói buộc trước đây, xóa bỏ tâm lý tự ti, mặc cảm. Bởi vì, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rằng, để phụ nữ có được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, gia đình, cũng như đạt được sự bình đẳng, tự do, phát triển, phát huy năng lực và khả năng của bản thân thì phụ nữ phải phấn đấu tự giải phóng mình ra khỏi những định kiến bất bình đẳng, những tư tưởng lạc hậu, đã in sâu trong xã hội. Người nói: “Bản thân chị em phụ nữ phải có chí tự cường tự lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình” [8, tr. 707]. Bằng cách, “Các cô, nhất là các cô ở huyện, phải đấu tranh mạnh. Vì các cô mà không đấu tranh thì những đồng chí nam có thành kiến với phụ nữ sẽ không tích cực sửa chữa” [10, tr. 275] và “Phụ nữ phải làm sao cho người ta thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị em công nhân sẽ cử mình lên” [6, tr. 537]. - Phụ nữ phải phấn đấu học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, rèn đức, luyện tài: Trong bài viết “Chống nạn thất học”, Người viết “Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước...” [4, tr. 41]. Nếu như trong xã hội phong kiến hay trong thời kỳ thuộc địa nửa phong kiến, việc học tập chỉ dành cho nam giới, phụ nữ thì không. Do đó, trình độ nhận thức, cũng như bản lĩnh tham gia xã hội của phụ nữ là không có. Bởi vậy, theo Hồ Chí Minh, học tập là một con đường giúp phụ nữ có thể tự giải phóng, xóa bỏ được những rào cản nhỏ hẹp trong “xó bếp”, điều mà trước đây mặc định cho họ. Nhưng phải học tập thật quyết tâm, nghiêm túc, Người chỉ dẫn tiếp, phụ nữ “Phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền” [8, tr. 640]. Năm 1960, Hồ Chí Minh nói thêm rằng, “Bản thân phụ nữ phải: - Gắng học tập chính trị, học tập văn hóa, kỹ thuật. - Nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa” [7, tr. 511]. - Sự nỗ lực tự giải phóng của phụ nữ còn được thực hiện bằng cách, chị em phụ nữ sẽ tích cực, chủ động thi đua trong mọi việc, mọi lĩnh vực: Năm 1956, trong tác phẩm “Chúc mừng ngày phụ nữ quốc tế “8 - 3””, Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh, công việc và cương vị trong xã hội, phụ nữ phải hăng hái thi đua, thể hiện sự tích cực, chủ động của bản thân. Có như vậy, sự nghiệp giải phóng, cũng như vị thế của họ mới dần được thừa nhận. Người viết: “Chị em phụ nữ nông thôn THI ĐUA góp sức hoàn thành tốt cải cách ruộng đất và lập những tổ đổi công tốt. Chị em công nhân và công chức THI ĐUA làm trọn nhiệm vụ của mình. Chị em trí thức THI ĐUA góp phần vào việc phát triển văn hóa. Nữ thanh niên tùy theo cương vị của mình, THI ĐUA học và hành, xung phong trong mọi công việc” [6, tr. 283]. - Bên cạnh đó, phụ nữ cũng phải nắm chắc nhiệm vụ của mình, tránh bị bao biện, làm thay: Trong lần nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Thái Nguyên, ngoài việc khen ngợi tinh thần vượt khó để tham gia xây dựng đất nước, Người cũng nhắc nhở: “chị em còn phải cố gắng học tập và đấu tranh hơn nữa để đi đến thật sự nam nữ bình quyền” [9, tr. 106]. Do vậy, nếu muốn giải phóng được mình, phụ nữ trước hết LÊ ANH THI 69 phải làm chủ bản thân mình, cả trong công tác lẫn cuộc sống, có như thế thì sự nghiệp mới hoàn thành vẻ vang. 3. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội, cũng như những chính sách của Nhà nước đã luôn nhấn mạnh đến vấn đề liên quan đến phụ nữ như: Việc thực hiện bình đẳng giới; công tác cán bộ nữ; tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội; nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ. Ngoài những chủ trương, chính sách được thể hiện trong các văn bản cụ thể thì Đảng và Nhà nước cũng chú trọng đến công tác phát triển quyền bình đẳng của phụ nữ, qua những buổi gặp ngoại giao, những ký kết mang tính khẳng định vững chắc lập trường của mình về công tác phụ nữ. Tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã định hướng rõ một trong những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là chú trọng thực hiện “nam nữ bình quyền”. Trong “Tuyên ngôn độc lập”, (02/9/1945), đã khẳng định, mọi người sinh ra đều được hưởng tự do, bình đẳng và hạnh phúc như nhau, không phân biệt màu da, sắc tộc, không phân biệt đó là nam hay nữ. Trong “Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, năm 1946, đã tuyên bố với thế giới rằng, dân tộc Việt Nam có đủ mọi quyền tự do, phụ nữ Việt Nam có cơ hội và điều kiện đứng ngang hàng với nam giới. “Hiến pháp năm 1980”, Điều 57, khẳng định: “Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ đều có quyền bầu cử” [11, tr. 12] và “Hiến pháp năm 1992”, Điều 52, khẳng định “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” [12, tr. 9]. Trong Chỉ thị 37/CT-TW của Ban Bí thư ngày 16/05/1994 về công tác cán bộ nữ, được thể hiện rõ trong “Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010” do Chính phủ công bố ngày 04/10/1997. Đây được coi là văn bản ghi nhận vai trò, vị trí của phụ nữ Việt Nam, họ là đối tượng vừa có tiềm năng lớn, vừa là động lực không kém phần quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng đồng thời, về phần mình, phụ nữ cần kết hợp hài hòa công việc gia đình với công tác xã hội. “Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X” đã đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ là: “Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp” [13, tr. 3]. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng X, tiếp tục cụ thể hóa quan điểm của Đảng đối với việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong thời kỳ mới, Ngày 27/04/2007, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 11/NQ-TW về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngày 29/11/2006 Quốc hội khóa XI, tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Bình đẳng giới. Đây là những văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về bình đẳng giới, là công cụ pháp lý thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình phấn đấu thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước ta. Năm 1981, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Công ước khẳng định tất cả các hình thức phân biệt đối xử đều bị lên án và các quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp, bao gồm cả biện pháp pháp luật, nhằm bảo đảm cho phụ nữ được thực hiện và thụ hưởng đầy đủ quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng CHỊ EM PHỤ NỮ HÃY TỰ GIẢI PHÓNG MÌNH - MỘT LUẬN ĐIỂM TÍCH CỰC VÀ ... 70 với nam giới. Trong buổi tiếp các trưởng đoàn dự cuộc họp “Mạng lưới lãnh đạo nữ lần thứ 11 của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)”, diễn ra vào tháng 09/2006 tại Hà Nội, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nêu rõ: “Ở Việt Nam, vai trò của phụ nữ rất quan trọng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phụ nữ tham gia rất tích cực trong nhiều hoạt động. Trong thời kỳ hòa bình và xây dựng đất nước, phụ nữ giữ cương vị lãnh đạo ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Vai trò của phụ nữ hoàn toàn xứng đáng với tám chữ vàng mà Ðảng, Nhà nước và nhân dân dành tặng: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” [14, tr. 1]. Bà Steven, một giáo sư sử học người Mỹ, đã viết: “Hai thế kỷ qua đã sản sinh ra những lãnh tụ chính trị nổi tiếng trên thế giới nhiều hơn tất cả các giai đoạn khác trong lịch sử. Trong số những lãnh tụ là nam giới như Tô-mát Giéc-phéc-sơn, Mahatma Găng-đi, Các Mác, V.I. Lênin, Mao Trạch Đông... chỉ có Hồ Chí Minh đã luôn nói về quyền bình đẳng của phụ nữ được hưởng các quyền lợi khác nhau như nam giới. Chỉ có Hồ Chí Minh là thấy được rằng phụ nữ đã phải chịu đựng gánh nặng như nam giới và còn hơn thế nữa. Tất cả các lãnh tụ nói trên đều quan tâm sâu sắc đến công lý xã hội, cho toàn thể xã hội, nhưng chỉ có Hồ Chí Minh đã thẳng thắn nói về chủ đề phụ nữ” [3, tr. 142]. Có thể nói, Hồ Chí Minh từ chỗ tin tưởng vào vị trí, vai trò của phụ nữ, Người đã thức tỉnh họ, mong muốn họ đứng lên đấu tranh, đồng thời, tạo mọi cơ hội và điều kiện để phụ nữ vươn lên. Đưa ra những giải pháp và hướng đi hiệu quả giúp phụ nữ tự khẳng định mình. Người luôn nhắc nhở các cấp lãnh đạo Đảng và chính phủ phải thật sự tin tưởng và tạo điều kiện tối đa cho việc thực hiện nam nữ bình quyền. Từ chỗ, những chủ trương ban hành liên quan đến quyền bình đẳng giữa nam và nữ, Hồ Chí Minh luôn khẳng định một điều, đó là bản thân phụ nữ phải tự cố gắng vươn lên, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của mình. không được trông chờ, ỷ lại. Có như thế, sự nghiệp giải phóng phụ nữ mới thành công, Bằng nhiều cách khác nhau, phụ nữ sẽ nỗ lực vươn lên, giải phóng mình. Có thể xem đây là một trong những luận điểm rất sáng tạo, tích cực trong quan điểm Hồ Chí Minh về công cuộc giải phóng phụ nữ. Kế thừa, vận dụng và phát triển quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện để phụ nữ được bình đẳng với nam giới về mọi mặt. Đây là điều kiện thuận lợi, phá đi rào cản về giới và cũng chính là là động lực thúc đẩy chị em phụ nữ tự vươn lên khẳng định mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thị Vân Anh (2010), “Những trở ngại đối với sự phấn đấu của nữ lãnh đạo”, Tạp chí nghiên cứu Gia đình và Giới. 2. Phạm Hoàng Điệp (2008), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự tiến bộ của phụ nữ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 3. G.Steven (1990), Vai trò của Hồ Chí Minh trong lịch sử tiến bộ của phụ nữ, Hội thảo quốc tế về Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. LÊ ANH THI 71 10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 11. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980, Hà Nội. 12. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992, Hà Nội. 13. Trang web của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam News/NewsDetail.aspx?co_id=30396&cn_id =517714. 14. Trang web của Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang data/sites/10/chuyende/phunu/phan2/vitrivai trocuaphunutrongxuthehoinhapi.html Ngày nhận bài: 21/11/2014 Biên tập xong: 15/9/2015 Duyệt đăng: 20/9/2015