Tóm tắt
Chủ nghĩa Mác - Lênin là“hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của
C. Mác, Ph.Ănghen và sự phát triển của Lênin; được hình thành và phát triển trên
cơ sở kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại và tổng kết
thực tiễn của thời đại; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận
thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột tiến tới giải phóng
con người. Bài viết trình bày chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng, phát triển
sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vào hoàn cảnh cụ thể của
đất nước.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại
|40
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ SỰ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN
SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀO HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỤ THỂ CỦA ĐẤT NƯỚC
TS. Phan Thị Hồng Duyên*
Trường Đại học Hoa Lư
Tóm tắt
Chủ nghĩa Mác - Lênin là“hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của
C. Mác, Ph.Ănghen và sự phát triển của Lênin; được hình thành và phát triển trên
cơ sở kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại và tổng kết
thực tiễn của thời đại; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận
thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột tiến tới giải phóng
con người. Bài viết trình bày chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng, phát triển
sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vào hoàn cảnh cụ thể của
đất nước.
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng, phát triển sáng tạo, Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam, hoàn cảnh cụ thể của đất nước.
I. MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hoàn
chỉnh, là vũ khí tƣ tƣởng của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Hiện nay, cuộc đấu tranh tƣ tƣởng và thực tiễn
mới xây dựng đất nƣớc đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục tìm hiểu và nhận thức sâu sắc hơn
những giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lênin để kế thừa, phát triển và vận dụng
học thuyết cách mạng và khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Vì
vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng, phát triển sáng
tạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vào hoàn cảnh cụ thể của đất nƣớc
là vấn đề quan trọng.
II. NỘI DUNG
2.1. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi phƣơng
thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ và trở thành lực lƣợng kinh tế
*
Phó trƣởng Phòng Đào tạo và Quản lý nghiên cứu khoa học
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
41|
thống trị ở các nƣớc Tây Âu (nhƣ Anh, Pháp...). Điều đó một mặt, đánh dấu bƣớc
chuyển hóa từ nền sản xuất thủ công tƣ bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công
nghiệp tƣ bản chủ nghĩa; mặt khác, làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trƣớc hết là sự
hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
Thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản ở các nƣớc Tây Âu đòi
hỏi phải có lý luận khoa học dẫn đƣờng, trong điều kiện đó chủ nghĩa Mác đã ra đời;
đồng thời, chính thực tiễn cách mạng đó cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái
quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác.
Ngoài ra, sự ra đời của chủ nghĩa Mác còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa văn
hóa của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức; kinh tế chính trị cổ
điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tƣởng Pháp và Anh cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, đặc biệt là những thành tựu của khoa học tự nhiên với ba phát minh vĩ đại là:
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lƣợng; học thuyết tế bào; học thuyết tiến hóa
của Đác-uyn.
Có thể nói, sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung và và triết học Mác nói riêng
không phải là ngẫu nhiên, mà là một hiện tƣợng hợp quy luật; nó vừa là sản phẩm của
tình hình kinh tế - xã hội đƣơng thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong các lĩnh vực
khoa học, vừa là kết quả của năng lực tƣ duy và tinh thần nhân văn của những nhà khoa
học sáng lập nên nó. Khái quát những kinh nghiệm của phong trào công nhân và những
thành tựu của khoa học tự nhiên, có nghiên cứu phê phán những tƣ tƣởng triết học
trƣớc đó, C. Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện bƣớc ngoặt cách mạng vĩ đại trong triết
học, đúng nhƣ V.I. Lênin đã viết: “Chủ nghĩa Mác là hệ thống các quan điểm và học
thuyết của Mác. Mác đã kế thừa và hoàn chỉnh một cách thiên tài ba trào lƣu tƣ tƣởng
chủ yếu của thế kỷ XIX, thuộc ba nƣớc tiên tiến nhất của loài ngƣời: triết học cổ điển
Đức, môn kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp gắn liền với các học
thuyết cách mạng nói chung. Tính triệt để và tính hoàn chỉnh tuyệt vời (mà ngay cả kẻ
thù của Mác cũng phải thừa nhận) của những quan điểm của ông (mà toàn bộ hợp
thành chủ nghĩa duy vật hiện đại và chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại, tức là lý luận
và cƣơng lĩnh của phong trào công nhân ở tất cả các nƣớc văn minh trên thế giới”1.
2.2. V.I. Lênin bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tƣ bản đã chuyển sang
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tƣ bản ngày
1
V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.59-60.
Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại
|42
càng bộc lộ rõ nét; mâu thuẫn trong lòng xã hội tƣ bản ngày càng sâu sắc, nhất là mâu
thuẫn đối kháng giữa giai cấp tƣ sản và vô sản. Phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc tại các nƣớc thuộc địa phát triển đã tạo nên sự thống nhất với phong trào vô
sản. Các phong trào của nông dân chống địa chủ phong kiến và phong trào giải phóng
dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản.
Để làm suy yếu phong trào cách mạng và chống lại giai cấp vô sản, giai cấp tƣ
sản đế quốc đã sử dụng một cách triệt để bọn cơ hội trong phong trào công nhân và chủ
nghĩa xét lại. Giai cấp vô sản Nga dƣới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích đã trở thành
ngọn cờ đầu của cách mạng thế giới. Giai cấp công nhân cùng với nông dân đã làm cuộc
cách mạng dân chủ tƣ sản 1905 - 1907; cuộc cách mạng tháng Hai 1917, phát triển thành
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mƣời 1917 vĩ đại đã mở đầu thời đại mới trong lịch sử thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, nhất là trong lĩnh vực vật lý học đã
đặt ra cho triết học những yêu cầu phát triển mới về thế giới quan, phƣơng pháp luận và
phải trả lời những vấn đề mà khoa học đặt ra.
Cũng trong thời kỳ này chủ nghĩa Mác đang đƣợc truyền bá rộng rãi vào nƣớc
Nga. Song, để bảo vệ lợi ích của giai cấp tƣ sản, những trào lƣu tƣ tƣởng trên thế giới
nhƣ chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (Makhơ), chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa thực
dụng, mƣợn cớ đổi mới chủ nghĩa Mác nhằm mục đích xuyên tạc và phủ nhận chủ
nghĩa Mác; thay đổi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử bằng
các biến dạng của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Bọn xét lại trong Quốc tế II, bọn
Mensêvích, những ngƣời Nga theo chủ nghĩa Makhơ, thì cố gắng chứng minh rằng, chủ
nghĩa Mác không có cơ sở triết học nên không phải là một học thuyết. Vì vậy, chúng
định hợp nhất chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Cantơ mới.
Trong bối cảnh đó, thực tiễn đặt ra nhu cầu là phải khái quát những thành tựu
khoa học tự nhiên để tiếp tục bảo vệ và phát triển thế giới quan và phƣơng pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác, nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng trong vật lý học; thực
hiện cuộc đấu tranh lý luận để chống sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác, qua đó bảo vệ bản
chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác; vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát
triển chủ nghĩa Mác nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra từ thực tiễn.
Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin đã
kịch liệt phê phán và kiên quyết đấu tranh với những quan điểm cơ hội, xét lại của các
nhà lãnh đạo Quốc tế II nhƣ Cauxki, Becxtanh, Plêkhanốp, Bukkharin, Tơrốtxki; phê
phán chủ nghĩa kinh nghiệm của E.Makhơ, Avênariut Đồng thời, vận dụng chủ
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
43|
nghĩa Mác một cách sáng tạo vào thực tiễn nƣớc Nga, V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích
đã lãnh đạo giai cấp công nhân và Nhân dân Nga tiến hành cuộc cách mạng tháng
Mƣời vĩ đại, mở đầu cho một thời kỳ lịch sử mới của sự quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời, kết quả lịch sử đó đã thổi bùng
lên ngọn lửa đấu tranh của giai cấp vô sản và cá dân tộc bị áp bức vì độc lập, tự do.
Vận dụng phép biện chứng mácxít vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc Nga,
V.I. Lênin đã đề ra Chính sách kinh tế mới, với chủ trƣơng phát triển kinh tế nhiều
thành phần, áp dụng chính sách thuế lƣơng thực thay cho chính sách cộng sản thời
chiến, áp dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, phát triển thƣơng mại, sử dụng chuyên gia tƣ
sản, áp dụng chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc, học tập kinh nghiệm của chủ nghĩa tƣ bản,
thực hiện luân chuyển cán bộ từ trung ƣơng về địa phƣơng và thực hiện các hình thức
của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc (tô nhƣợng và hợp tác xã); coi trọng ngƣời nông dân và
phát triển kinh tế nông thôn. Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin đã đƣa nƣớc Nga
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội năm 1921, bƣớc sang một giai đoạn phát
triển mới.
2.3. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể đất nước
Trên hành trình vạn dặm đi tìm đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đƣờng cách
mạng chân chính, con đƣờng cứu nƣớc đúng đắn. Ngƣời đã nhận thức rằng, chỉ có chủ
nghĩa Mác - Lênin là "chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất"2, từ
đó Ngƣời khẳng định: "Từng bƣớc một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận
Mác - Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi mới hiểu đƣợc rằng chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng đƣợc các dân tộc bị áp bức và những ngƣời
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"3 và đặt trọn niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin,
lấy lý luận đó làm ngọn đèn soi đƣờng, làm kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Vì
vậy, đã tiếp thu lý luận Mác - Lênin và ra sức truyền bá lý luận đó thông qua những
luận đề tƣ tƣởng của mình vào phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc Việt
Nam, giác ngộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam đấu tranh để giành độc lập,
giải phóng dân tộc, giải phóng những ngƣời lao động cùng khổ, xây dựng xã hội mới vì
Nhân dân, vì con ngƣời.
2
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289.
3
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.563.
Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại
|44
Theo Nguyễn Ái Quốc, muốn đƣa sự nghiệp giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của
cách mạng vô sản, cần phải nắm vững mục tiêu, bản chất và phƣơng thức tiến hành
cuộc cách mạng đó, đặc biệt ở một nƣớc thuộc địa, phong kiến nhƣ ở Việt Nam, các
nƣớc Đông Dƣơng và cả châu Á nói chung “Chế độ cộng sản có áp dụng đƣợc ở châu
Á nói chung và ở Đông Dƣơng nói riêng không? Đấy là vấn đề mà chúng ta đang quan
tâm hiện nay”4. Ngƣời cho rằng: “Xét những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản
thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu”5. Đồng thời, nhấn mạnh sự
cần thiết phải quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa cộng sản, tức chủ nghĩa Bônsêvích có
nghĩa là hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nƣớc ngoài. “Nghĩa thứ
nhất gán cho danh từ ấy làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta;
nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Cả hai điều đó đều nguy hiểm cả.
Chỉ có một số ngƣời trong nhân dân hiểu đƣợc thế nào là chủ nghĩa cộng sản”6. Điều
đó cho thấy, việc truyền bá, giáo dục về chủ nghĩa cộng sản trong công nhân và Nhân
dân có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng vận dụng sáng
tạo vào điều kiện của Việt Nam. Trăn trở của Ngƣời “Mác đã xây dựng học thuyết của
mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhƣng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà
châu Âu là gì? Đó chƣa phải là toàn thể nhân loại”7. Vì vậy, Ngƣời đặt vấn là cần phải
“xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc theo
phƣơng Đông”8. Đồng thời, từ thực tiễn Việt Nam, Ngƣời đã thấy rằng “cuộc đấu tranh
giai cấp không diễn ra giống nhƣ ở phƣơng Tây, nếu nông dân gần nhƣ chẳng có gì
thì địa chủ cũng không có tài sản gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần
thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết
mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy
móc; ngƣời thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có tơrớt. Ngƣời thì cam chịu số phận
của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham lam của mình. Sự xung đột về quyền lợi của họ
đƣợc giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi đƣợc”9.
Khác với C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tƣ bản, V.I. Lênin
bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Nguyễn Ái Quốc dành sự
4
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.45.
5
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47.
6
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.80-81.
7
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.509-510.
8
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.510.
9
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.508-509.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
45|
quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Nếu nhƣ các nhà sáng
lập học thuyết mácxít nhấn mạnh cuộc đấu tranh giai cấp ở các nƣớc tƣ bản, thì
Nguyễn Ái Quốc lại tập trung vào cuộc đấu tranh dân tộc ở thuộc địa. Theo Ngƣời, độc
lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa nói chung, dân tộc Việt Nam
nói riêng. Mục tiêu cao nhất của mọi cuộc đấu tranh là nhằm thoát khỏi ách áp bức bóc
lột của giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do, hòa bình để xây dựng đất nƣớc, đảm bảo
cho Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và đó cũng là mục tiêu cao cả của Ngƣời
“Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn;
đấy là tất cả những điều tôi hiểu”10.
Nói về chiến lƣợc cách mạng ở các nƣớc thuộc địa, Ngƣời khẳng định chƣa phải
là đấu tranh giai cấp, mà là đấu tranh dân tộc. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh,
Ngƣời phân biệt ba loại cách mạng: Cách mạng tƣ sản, cách mạng vô sản và cách mạng
giải phóng dân tộc. Điều nổi bật trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con đƣờng cách mạng
Việt Nam là sự kết hợp biện chứng tƣ tƣởng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng con ngƣời của chủ nghĩa Mác - Lênin với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất
nƣớc. Cuộc cách mạng duy nhất giải phóng triệt để và vĩnh viễn ngƣời lao động là cuộc
cách mạng vô sản, song nó đƣợc tiến hành và có đặc điểm riêng nhƣ thế nào lại phụ thuộc
vào hoàn cảnh thời đại, của riêng mỗi nƣớc, đồng thời Ngƣời xác định tính chất và nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Lực lƣợng của cuộc
cách mạng đó là toàn dân tộc, trong đó công nhân và nông dân là “chủ cách mệnh”,
“gốc cách mệnh”, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là “bầu bạn cách mệnh của
công nông”...
Đầu năm 1930, khi soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái
Quốc đã hoạch định con đƣờng phát triển của dân tộc từ một nƣớc thuộc địa đi lên chủ
nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lƣợc cách mạng khác nhau: “Làm tƣ
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”11. “Tƣ sản
dân quyền cách mạng” là nhằm giải phóng dân tộc, hoàn thành nhiệm vụ chống đế
quốc, giành độc lập dân tộc (không bao gồm nhiệm vụ ruộng đất). “Thổ địa cách
mạng” với nhiệm vụ chủ yếu là cách mạng ruộng đất. “Đi tới xã hội cộng sản” lại là
giai đoạn phát triển kế tiếp để từng bƣớc đạt mục tiêu chủ nghĩa xã hội, đó là hƣớng
phát triển lâu dài. Cƣơng lĩnh chủ trƣơng tập hợp lực lƣợng rộng rãi, bao gồm toàn dân
tộc để tiến hành các cuộc cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến triệt để.
10
Trần Dân Tiên (2005), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.52.
11
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.1.
Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại
|46
Trên cơ sở những điều kiện lịch sử xã hội của châu Âu, khi ở đó những nƣớc công
nghiệp và chủ nghĩa tƣ bản cũng đã phát triển, C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã
vạch ra con đƣờng cách mạng vô sản giải phóng giai cấp công nhân và Nhân dân lao
động. Các ông đều lấy việc giải phóng giai cấp vô sản ở các nƣớc tƣ bản làm nhiệm vụ
trọng tâm và là điều kiện cho giải phóng dân tộc, giải phóng ngƣời lao động ở thuộc địa,
thì Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận giải phóng con ngƣời của chủ nghĩa Mác
- Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp, vạch ra nhiệm vụ cụ thể
của từng giai đoạn cách mạng, đề ra con đƣờng giải phóng ngƣời lao động ở thuộc địa,
phù hợp với điều kiện xã hội, với nhu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân lao động:
Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời.
Ngƣời đã nhận thức muốn giải phóng xã hội, giải phóng ngƣời lao động nhất thiết
phải có đấu tranh giai cấp. Song, ở Việt Nam “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống nhƣ ở phƣơng Tây”12, bởi vì điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam khác với châu
Âu; văn hóa phƣơng Đông khác với văn hóa phƣơng Tây. Đồng thời, nhận rõ đấu tranh
giai cấp ở cả ở Đông Dƣơng, Trung Quốc, Ấn Độ, châu Á và phƣơng Đông, Ngƣời đã
cho rằng: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nƣớc. Chính nó đã gây nên cuộc
nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những ngƣời culi biết phản đối, nó làm cho
những ngƣời “nhà quê” phản đối ngầm trƣớc thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ
nghĩa dân tộc đã thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với ngƣời Pháp và ngƣời
Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cách mạng trốn
sang Nhật Bản, làm vua Duy Tân mƣu tính khởi nghĩa năm 1917”13. “Giờ đây, ngƣời ta
sẽ không thể làm gì đƣợc cho ngƣời An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và
duy nhất của đời sống xã hội của họ”14.
Đặt lên hàng đầu mục tiêu, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam
và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác -
Lênin, nhất là điều mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã kêu gọi trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản: “giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vƣơn
lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”15.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của đất nƣớc,
Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhân dân lao động
đoàn kết đấu tranh giành độc lập dân tộc, ở đầu bằng Cách mạng tháng Tám năm 1945.
12
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.508.
13
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.551.
14
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.513.
15
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.623-624.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
47|
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam đã bắt đầu kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ II
của Đảng (2/1951) xác định rõ con đƣờng hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1954, miền Bắc đƣợc hoàn toàn giải phóng và bƣớc
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam vẫn phải tiếp tục hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong điều kiện miền Bắc vừa mới thoát
khỏi ách thực dân, phong kiến, nền kinh tế hết sức lạc hậu và đất nƣớc đang bị chia cắt
làm hai miền, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Trong những điều kiện nhƣ thế, chúng ta phải
dùng những phƣơng pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa
xã h