Chùa pháp vân chốn tâm linh nông nghiệp xưa

Từ xa xưa, khách hành hương ở phía Nam ra Thăng Long đã có câu ca:“ Mong sao chóng đến kinh kỳ/Đến đền Bà Sáng là gần Kinh đô” Đền Bà Sáng như một tiêu điểm đích đến nằm kề bên đường kinh lý xuyên Việt ở phía Nam Kinh thành, trong đền có một cây thông cổ thụ, nhựa thong lâu năm đã thành hổ phách

pdf11 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chùa pháp vân chốn tâm linh nông nghiệp xưa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chùa Pháp Vân Chốn Tâm Linh Nông Nghiệp Xưa Từ xa xưa, khách hành hương ở phía Nam ra Thăng Long đã có câu ca:“ Mong sao chóng đến kinh kỳ/Đến đền Bà Sáng là gần Kinh đô” Đền Bà Sáng như một tiêu điểm đích đến nằm kề bên đường kinh lý xuyên Việt ở phía Nam Kinh thành, trong đền có một cây thông cổ thụ, nhựa thong lâu năm đã thành hổ phách. Hổ phách dưới nắng mặt trời sẽ phát quang nên đi từ xa nhìn về thì thấy ánh sang lan tỏa ra. Bởi thế, mới gọi đền Bà là đền Bà Sáng. Đền Bà Sáng chính là chùa Pháp Vân ngày nay đang tọa lạc tại thôn Văn Giáp, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Chùa có tên chữ là Pháp Vân, tên thường gọi là chùa Hai Bà. Cái tên Hai Bà xuất phát từ việc 2 nhân vật được thờ trong chùa đó là bà Pháp Vân và bà Pháp Lôi trong hệ thống tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện). Văn bia cổ thời Lê còn ghi một tên nữa là Bồ Đà Tự. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn vẫn gọi chùa này là chùa Pháp Vân. Lịch sử chùa Pháp Vân bắt đầu từ một truyền thuyết. Mùa thu năm đầu Triều Lý Nhân Tông (1072), trời mưa tầm tã, ứng lụt nhiều nơi. Vua cho rước tượng Bà từ Luy Lâu về Chùa Bảo Thiên làm lễ cầu đảo, lễ xong trời quang mây tạnh. Đến nam Thái Minh thứ ba (1074) trời lại đại hạn, cây cối héo khô. Vua cho cầu đảo nhưng không hiểu sao mưa chỉ xảy ra ở vùng gần Kinh thành, Hoàng đế liền hạ lệnh tổ chức rước các Bà đi các phương thì đều được mưa lớn. Khi rước đến xứ Bồ Đà thuộc địa phận Văn Giáp, huyện Thường Tín ngày nay) thì mưa to, sấm chớp nổi lên và làm cho bầu trời mây đen vần vũ, tối đen như mực, pháp giá phải dừng lại không đi được nữa, một lát sau thấy trời quang mây tạnh, pháp giá tiếp tục đi. Nhưng không hiểu vì sao chỉ có hai tượng Pháp Vũ và Pháp Lôi thì không đi được. Các quan tâu báo với Nhà Vua, Vua liền phán rằng” Sinh ra ở phương Tây, muốn trấn ngự ở phương Nam, đấy này át có linh khí”, bèn cấp tiền của để dựng lại hai ngôi chùa thờ các bà Pháp Vân và Pháp Lôi. Đồng thời ban chỉ miễn thuế, cấp ruộng tự điền để dân lo việc đèn hương thờ cúng. Như vậy thì chùa Văn Giáp đã có từ thế kỷ XI và ban đầu phải là hai ngôi thời hai Bà liền nhau nhưng riêng biệt mỗi bà một chùa. Dấu tích xưa của cả 2 chùa thế nào không thấy sử sách ghi chép. Chỉ biết chùa thờ bà Pháp Vân nay là một công trình kiến trúc quy mô to lớn nằm trong khuôn viên rộng tới cả vạn m2. Tổng thể chùa Pháp Vân có bố cục kiến trúc theo kiểu “ Nội công ngoại quốc”. Quá trình tôn tạo, trùng tu do không có sự hướng dẫn của các nhà chuyên môn, nên quy mô kiến trúc chùa trở nên phúc tạp hơn một số các chùa khác. Ngoài cùng là cổng tam quan cao rộng rồi đến tòa đại bái ( gác chuông), tiền đường, hậu cung, nhà tổ và hai dãy hành lang. Tòa đại bái khá dặc biệt, hai tầng 8 mái, kết cấu bên trong bằng gỗ làm theo kiểu 4 hàng chân, vì nóc chồng giường, trên gác chuông có treo một quả chuông lớn, đường kính rộng hơn 1m, chiều cao gần 2m, đây là quả chuông to lớn nhất vùng Thượng Phúc xưa. Chiều chiều, khi tiếng chuông chiêu mộ từ đây vang lên thì cả vùng bán kính rộng vài km vẫn nghe thấy rõ. Qua tòa đại bái là tòa tiền đường, tòa tiền đường cũng có kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa khác, tiền đường 3 gian rộng lớn, gian giữa xây hương án 3 tầng, trang trí bằng các họa tiết rồng mây, hoa lá rất sinh động, hai gian bên thờ Đức Ông và Đức Thánh Hiền, treo chuông, treo khánh Tòa Tam Bảo, tiền đường và hậu cung được cấu trúc liên hoàn bởi hạng mục “ ống muống” chạy dọc giữa hai tòa thành chữ Công. Kiến trúc kiểu này tạo ra cho không gian bên trong thì khép kín, bên ngoài vuốt góc thành đầu đao. Cuối ống muống, ở phần hạ diệp có trang trí 2 bức phù điêu lớn khắc tích “ độc long”. Trung tâm bức là một con rồng lớn đầu hướng vào hậu cung, xung quanh điểm xuyết tứ linh và hoa lá cách điệu. Sau hậu cung là nhà Tổ và nhà Mẫu, đây là những công trình mới được xây dựng thêm có ý nghĩa bổ sung cho hoàn thiện với tục thờ thông dụng của một nhà chùa Việt Nam là phải có nhà Tổ để thờ các vị sư đã có công trụ trì, chấp tác tại bản tự, khung nhà được làm bằng gỗ quý, tượng pháp các sư tổ hầu hết bằng gỗ sơn don thếp vàng. Các di vật và những đồ tự khí còn lưu giữ được rất nhiều thứ quý, đôi khổng tước bằng gỗ sơn son thếp vàng cao tới 2,2m, bát hương lớn thời Lê. Tượng Pháp ở đây khác với các chùa là chỉ có tượng bà Pháp Vân là chính. Pho tượng bằng gỗ cao 1m30, sơn thiếp mày cánh gián, tạc ở tư thế ngồi tĩnh tọa, hai chân xếp bằng, tay trái đặt lên đùi, tay phải giơ lên và hướng về phía trước, khuôn mặt ngài phúc hậu, mặt nhìn thẳng xa xăm, hướng ra không gian trời đấtĐúng phong cách tư thế của người đang dồn tâm trí để làm một công việc rất có ý nghĩa là cầu nguyện trời đất thuận hòa không mưa to gió lớn, không nắng hạn khô hanh để nhân gian có mùa màng bội thu thỏa long cư dân nông nghiệp của Ngài. Đôi rồng đá nghệ thuật thời Lê, đây là một trong những tác phẩm điêu khắc rất có giá trị. Đặc biệt là cuốn sách bằng kim loại quý làm từ đời Thành Thái, cuốn sách bằng đồng, chữ được dát vàng mười, các trang bên trong bằng bạc, trọng lượng cuốn sách trị giá 21 lạng và 6 tiền. Sách ghi lại sự tích chùa Pháp Vân bằng chữ Hán. Chùa Pháp Vân, một di tích văn hóa rất có giá trị nhiều mặt cả về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, du lịch đã được Nhà nước công nhận xếp hạng di tích cấp quốc gia từ thế kỷ trước. Với ý thước tâm linh nông nghiệp, khát vọng thiên nhiên trong nghề trồng trọt của người nông dân Việt Nam thì ngay từ xa xưa, chùa Pháp Vân đã trở thành trung tâm cầu đảo thời tiết của các triều đại nhà nước phong kiến và nhân dân vùng phía Nam Kinh thành. Không phải ngẫu nhiên mà chùa Pháp Vân được trở hai vị tứ pháp ( trong hệ thống Tứ Pháp Việt Nam) rồi trở thành địa điểm cầu đảo như thế hệ cha ông ta cầu mưa có nước, cầu tạnh trời yên. Vốn là một di tích có từ cách đây hàng mấy trăm năm, trải qua sự khắc nghiệt của thời gian, thời tiết khí hậu nóng ẩm và chiến tranh đã làm chùa Pháp Vân xuống cấp nặng nề, hư hại nhiều hạng mục. Mặc dù nhân dân làng Văn Giáp, bà con mộ đạo thập phương đã cúng giành tôn tạo nhiều lần nhưng hiện nay tòa tháp chuông ( nhà chính) đang có nguy cơ sụp đổ bất kỳ lúc nào, hệ thống xà ngang đã bị mục nát, hàng cột đang được thay thế bằng những cây chống bên ngoài; mái ngói xô sụt nhiều chỗ làm cho nước mưa tràn vào nền nhà càng làm cho công trình xuống cấp nghiêm trọng hơn. Để bảo tồn một di tích quý như chùa Pháp Vân là rất cần thiết. Tháng 5-2011, UBND thành phố Hà Nội đã có thông báo cho các ngành hữu quan và địa phương tiến hành làm thủ tục chuẩn bị đầu tư để trùng tu chùa vào năm kế hoạch tới. Mong sao chùa Văn Giáp sớm được trùng tu tôn tạo lại cho xứng tầm với giá trị của một di tích văn hóa, tâm linh nông nghiệp. Nơi thờ Bà Pháp Lôi cũng phải được khôi phục lại ở ngay vị trí ban đầu mà nhà Lý đã dựng lên, để cái tên chùa Hai Bà trở lại đúng nghĩa đã ăn sâu vào tiềm thức nhân dân vùng Thượng Phúc từ ngàn năm xưa. Có thể thì khát vọng mưa thuận gió hòa vẫn có nơi để những người nông dân đến tri ân với tiên tổ và mừng vui sau những thành công của khoa học kỹ thuật giúp cây lúa nặng bong, cây hoa đậm sắc, trái ngọt trĩu cành.
Tài liệu liên quan