1.1. Định nghĩa
Hình thức ba đoạn phức là hình thức của tác phẩm âm nhạc được cấu tạo bằng ba phần:
phần thứnhất là phần trình bày, có hình thức nhỏnhất là hai hoặc ba đoạn đơn; phần thứhai là
phần phát triển; phần thứba là phần tái hiện, phần thứhai phải tương phản với phần thứnhất và
phần thứba.
1.2. Cấu trúc từng phần của hình thức ba đoạn phức
1.2.1. Phần Trình bày
Phần thứnhất (A) của hình thức ba đoạn phức giữchức năng là phần trình bàycủa hình
thức và cấu trúc ởhình thức ba đoạn đơn hoặc hai đoạn đơn.
Cuối phần trình bày thường kết trọn vềgiọng chính ban đầu, tạo thành một điểm ngắt để
phân biệt ranh giới với phần giữa (B).
67 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 3428 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương VI: Sơ lược về một số hình thức âm nhạc khác (sinh viên tự nghiên cứu để mở rộng kiến thức), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
Chương VI:
SƠ LƯỢC VỀ MỘT SỐ HÌNH THỨC ÂM NHẠC KHÁC
(SINH VIÊN TỰ NGHIÊN CỨU ĐỂ MỞ RỘNG KIẾN THỨC)
Mục đích, yêu cầu
Giới thiệu một cách sơ lược cho học viên về các hình thức âm nhạc: ba đoạn phức, rondo
(rông-đô), biến tấu, sonate (xô-nát) để mở rộng thêm kiến thức về âm nhạc.
1. Hình thức ba đoạn phức
1.1. Định nghĩa
Hình thức ba đoạn phức là hình thức của tác phẩm âm nhạc được cấu tạo bằng ba phần:
phần thứ nhất là phần trình bày, có hình thức nhỏ nhất là hai hoặc ba đoạn đơn; phần thứ hai là
phần phát triển; phần thứ ba là phần tái hiện, phần thứ hai phải tương phản với phần thứ nhất và
phần thứ ba.
1.2. Cấu trúc từng phần của hình thức ba đoạn phức
1.2.1. Phần Trình bày
Phần thứ nhất (A) của hình thức ba đoạn phức giữ chức năng là phần trình bày của hình
thức và cấu trúc ở hình thức ba đoạn đơn hoặc hai đoạn đơn.
Cuối phần trình bày thường kết trọn về giọng chính ban đầu, tạo thành một điểm ngắt để
phân biệt ranh giới với phần giữa (B).
1.2.2. Phần Trung gian
Phần thứ hai (B) của hình thức ba đoạn phức giữ chức năng là phần giữa của hình thức và
sự tương phản rõ rệt với phần trình bày. Sự tương phản giữa hai phần này thường được thể hiện
bằng nhiều thủ pháp, như: xuất hiện chất liệu âm nhạc mới, chuyển sang giọng mới, thay đổi âm
hình tiết tấu, thay đổi lối tiến hành giai điệu, thay đổi nhịp độ, nhịp điệu.v.v... Sự tương phản
giữa hai phần trình bày và phần giữa là nguyên tắc cấu trúc của hình thức này.
Phần giữa thường có cấu trúc ở hình thức hai đoạn đơn, ba đoạn đơn, hoặc đoạn nhạc
được gọi là Trio (tri-ô).
Đôi khi phần giữa là một đoạn chen phát triển không ổn định, dẫn tới không có cấu trúc rõ
ràng.
1.2.3. Phần Tái hiện
Phần thứ ba của hình thức ba đoạn phức giữ chức năng là phần tái hiện của hình thức.
Phần tái hiện trong tác phẩm viết ở hình thức ba đoạn phức của các nhạc sĩ thuộc trường
phái cổ điển thường họa lại nguyên dạng phần trình bày, thường kí hiệu là “Da capo” (đa-ca-
69
pô).
Phần tái hiện còn có thể nhắc lại phần trình bày có thay đổi như rút gọn mở rộng khuôn
khổ hoặc biến đổi các phương pháp diễn tả âm nhạc.v.v...
1.3. Các phần phụ và ứng dụng của hình thức ba đoạn phức
Cũng như các hình thức đã học, hình thức ba đoạn phức ngoài ba phần chính là phần trình
bày, phần giữa và phần tái hiện còn có các phần phụ như: mở đầu, nối tiếp và cô-đa.
Hình thức ba đoạn phức được sử dụng rộng rãi qua các thời kì lịch sử của âm nhạc từ lúc
hình thành của hình thức này, đặc biệt đối với trường phái âm nhạc lãng mạn.
Hình thức ba đoạn phức được dùng là một chương của bản giao hưởng, bản sonate (xô-
nát)...; đồng thời còn sử dụng để cấu trúc một tác phẩm độc lập như một số bản valse (van-xơ),
mazurka (ma-duyếch-ca) ...
Hình thức ba đoạn phức có khả năng biểu hiện những hình tượng nội dung đa dạng, phức
tạp.
2. Hình thức rondo (rông-đô)
2.1.Định nghĩa
Rondo (rông-đô) là hình thức âm nhạc bao gồm nhiều thành phần, trong đó có một phần
gọi là chủ đề được nhắc lại ít nhất ba lần. Xen kẽ chủ đề là những phần khác nhau về nội dung,
gọi là các đoạn chen (episode = ê-pi-dốt).
2.2. Nguồn gốc và sự hình thành, phát triển
2.2.1. Rondo không chỉ là hình thức âm nhạc mà còn là thể loại âm nhạc
Hình thức rondo bắt nguồn từ các bài ca, điệu múa dân gian. Rondo với nghĩa đen là vòng
tròn. Trong các bài ca xưa thường có phiên khúc (couplet = cu-p’-lê) và điệp khúc (refrain = rơ-
f’-ranh). Mỗi lần trình diễn, điệp khúc giữ nguyên, còn phiên khúc luôn thay đổi với lời ca mới
và cả âm nhạc cũng thay đổi dẫn tới sự xuất hiện của hình thức rondo.
Rondo còn là thể loại âm nhạc bởi tính sinh động và có đặc điểm nhảy múa, liên tưởng tới
những cảnh sinh hoạt trong các ngày hội phong tục. Chủ đề âm nhạc (A) được coi là phần tham
gia của đông đảo tập thể múa; các đoạn chen (B, C, D...) là những đoạn múa một người, hai
người, ba người...
2.2.2. Hình thức rondo xuất hiện trong nền âm nhạc chuyên nghiệp Tây Âu vào cuối thế kỉ
XVIII trong tác phẩm của các nhạc sĩ chơi đàn cla-vơ-xanh cổ Pháp và từ đó tên gọi cho hình
thức này là rondo cổ Pháp.
Trong quá trình phát triển của hình thức, rondo Pháp đã chuẩn bị cho sự xuất hiện của
rondo cổ điển phong phú hơn bằng các thủ pháp mới đặt biệt qua tác phẩm của J.S.Bắc và
G.F.Hen-đen.
Rondo cổ điển ra đời đã mở ra một giai đoạn cho sự phát triển của hình thức này trong
sáng tác của các nhạc sĩ thuộc trường phái cổ điển Viên (Vienne) như Mô-da, Hay-đơn và Bê-
tô-ven.
70
Rông-đô cổ điển trở thành hình thức, trong đó chủ đề âm nhạc phát triển mạnh và sự
tương phản về chủ đề giữ vai trò quan trọng trong qua trình sáng tạo. Các đoạn chen ở rondo cổ
điển mở rộng hiệu quả hình tượng chủ đề, phát triển độc lập so với chủ đề. Tuy nhiên, chủ đề và
các đoạn chen vẫn có mối quan hệ tương hỗ nhất định.
3. Hình thức biến tấu
3.1. Định nghĩa
Hình thức biến tấu bao gồm sự trình bày của chủ đề và sau đó là hàng loạt sự nhắc lại
chủ đề nhưng có biến đổi, gọi là những biến khúc.
3.2. Nguồn gốc và sự hình thành, phát triển
Hình thức biến tấu bắt nguồn từ nghệ thuật ca hát, nhảy múa dân gian. Các điệu múa và
bài hát ấy luôn được lặp lại nhiều lần khi trình diễn. Mỗi lần nhắc lại người ta còn thêm vào
những chi tiết mới về cao độ và cho sự xuất hiện hình thức biến tấu.
Hình thức biến tấu xuất hiện trong nền âm nhạc chuyên nghiệp Tây Âu vào thế kỉ XVII và
được sử dụng cho tới ngày nay.
Hình thức biến tấu có các dạng chính là biến tấu nghiêm khắc và biến tấu tự do.
3.2.1. Biến tấu nghiêm khắc: luôn giữ lại những đường nét chính của chủ đề, khuôn khổ,
dàn ý hòa âm, nhịp độ v.v... trong các biến khúc.
3.2.2. Biến tấu tự do: ngoài nguyên tắc nhắc lại có thay đổi còn dùng cả nguyên tắc phát
triển.
4. Hình thức sonate (xô-nát)
4.1. Định nghĩa
Hình thức sonate (xô-nát) là sự trình bày, phát triển và tái hiện những chủ đề tương phản
trong mối tương quan về giọng có tính quy luật.
Hình thức sonate có cấu trúc phức tạp và hoàn thiện nhất, là một hình thức có tính kịch sâu
sắc, hình thành trên cơ sở đối chiếu tương phản của các hình tượng âm nhạc khác nhau biểu
hiện những xung đột căng thẳng; phản ánh được nhiều nội dung đa dạng trong cuộc sống, từ
những tình cảm nội tâm riêng tư đến những tư tưởng triết lí phức tạp. Ở hình thức này, các quá
trình căng thẳng nội tại được tổng hợp trong tính thống nhất cao.
Hình thức sonate nảy sinh từ đầu thế kỷ XVIII, nhưng hoàn thiện ở nửa cuối thế kỷ này
trong các sáng tác của Hay-đơn, Mô-da và nhất là Bê-tô-ven. Cho tới nay, hình thức sonate vẫn
được sử dụng và luôn được đổi mới, phong phú về cấu trúc cũng như các phương pháp diễn tả
của âm nhạc để phản ánh thực tế sôi động và những suy tư của con người trong cuộc sống.
Trong thực tế thường có sự lầm lẫn giữa hai khái niệm: hình thức sonate và bản sonate.
Hình thức sonate là cấu trúc của một tác phẩm độc lập hoặc một chương nào đó của một
bản sonate, bản giao hưởng...
Bản sonate là liên khúc gồm nhiều chương nhạc khác nhau, trong đó có một chương cấu
71
trúc ở hình thức sonate.
4.2. Cấu trúc của hình thức sonate (xô-nát)
Hình thức sonate đầy đủ gồm có ba phần: phần trình bày, phần phát triển và phần tái
hiện. Tùy vào từng phần có thể còn có thêm phần mở đầu và phần kết (Cô-đa).
4.2.1. Phần trình bày: có chức năng giới thiệu hai hay nhiều chủ đề âm nhạc khác nhau.
4.2.2. Phần phát triển của hình thức sonate luôn không ổn định, thể hiện sự xung đột, căng
thẳng.
4.2.3. Phần tái hiện của hình thức sonate là họa lại các giai điệu của phần trình bày nhưng
có biến đổi.
4.2.4. Coda (cô-đa) được tiếp sau phần tái hiện với chức năng khái quát toàn bộ hình thức.
72
Chương VII:
GIỚI THIỆU MỘT SỐ THỂ LOẠI THANH NHẠC
Mục đích, yêu cầu
Giúp cho học viên biết phân biệt một số thể loại âm nhạc khác nhau của thanh nhạc để
phân tích các ca khúc ở cuốn Bài hát Mẫu giáo.
Thanh nhạc là những tác phẩm được biểu diễn bằng giọng người, loại hình xuất hiện sớm
nhất của nghệ thuật âm nhạc; ra đời cùng với tiếng nói khi con người biết dùng ngôn ngữ làm
phương tiện giao lưu tiếp xúc.
Trải qua những chặng đường dài của lịch sử, nghệ thuật âm nhạc biến đổi ngày càng đa
dạng, phức tạp và phong phú hơn. Nhiều loại hình thanh nhạc mới nảy sinh song song với việc
bảo tồn nền thanh nhạc cổ của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Tác phẩm thanh nhạc là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc và ngôn từ. Âm điệu tiếng
nói và giai điệu âm nhạc có những nét gần gũi và chứa đựng màu sắc sinh động riêng của từng
dân tộc, có tính hoàn thiện nhất định về tư duy, nhưng giữa chúng có sự khác biệt cơ bản, bởi
giai điệu âm nhạc là sự hình thành mối quan hệ cao thấp chính xác của các âm.
Giai điệu âm nhạc, nhất là những tác phẩm thanh nhạc có quan hệ mật thiết với ngôn từ,
và nếu lời ca từ thơ ca thì mối quan hệ ấy càng gần gũi. Bởi hình tượng thơ hình thành trong
một hệ thống thanh điệu của ngôn ngữ, có vần luật, có nhịp điệu khác với ngôn ngữ bình
thường. Vì vậy, mọi loại hình khác nhau của thanh nhạc, từ bài dân ca đến những tác phẩm lớn
phức tạp, đều gắn chặt chẽ với ngữ điệu tiếng nói.
1. Ca khúc
Ca khúc là danh từ dùng để gọi những tác phẩm thanh nhạc khác nhau: ca khúc dân ca và
ca khúc của các nhạc sĩ chuyên nghiệp với vai trò thể hiện chủ yếu là giai diệu. Giai điệu của ca
khúc là những giai điệu hoàn chỉnh, độc lập; thậm chí có thể dùng một nhạc cụ nào đó trình tấu
vẫn chứa đựng một ý nghĩa hoàn thiện của một tư duy âm nhạc.
Ca khúc được phân thành các loại khác nhau. Ca khúc dân ca cũng vậy, mỗi loại phục vụ
cho một nhu cầu riêng của con người; có bài phản ánh sinh hoạt lao động thường nhật; có bài
là tỏ tình; có bài là nghi lễ, chiến trận; có bài là hội hè, vui chơi; lại có bài gắn liền với các
điệu múa.v.v... Ca khúc chuyên nghiệp cũng có thể chia thành nhiều loại khác nhau với nhiều
tiêu chí phân loại như dựa vào nội dung, tính chất thể hiện của phương pháp diễn tả âm nhạc
như giai điệu, tiết tấu, nhịp điệu... đôi khi còn căn cứ vào cấu trúc của tác phẩm trong việc
phân loại.
1.1. Hành khúc: là những bài ca có nhịp độ vừa phải, phù hợp với bước đi. Lối tiến hành
giai điệu gồm có nhiều quãng 4, quãng 5... và trường độ các âm hay dùng các nốt có chấm dôi
v.v... Âm nhạc vang lên với tính chất mạnh mẽ, khúc chiết như: Tiến quân ca (Văn Cao), Diệt
phát xít (Nguyễn Đình Thi), Hành quân xa (Đỗ Nhuận), Tiểu đoàn Ba lẻ bảy (Nguyễn Hữu
73
Trí), Anh vẫn hành quân (Huy Du), Năm anh em trên một chiếc xe tăng (Doãn Nho), Bác đang
cùng chúng cháu hành quân (Huy Thục), Giải phóng miền Nam (Huỳnh Minh Siêng) v.v...
38. Huỳnh Minh Siêng: Giải phóng miền Nam (trích)
Nhịp đi – Hùng mạnh
1.2. Chính ca: là những bài hát dùng trong các nghi lễ như: quốc ca, những bài ca chính
thức của một tổ chức nào đó như: của thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, sinh viên, học sinh v.v...
Những bài hát ấy thường có tính chất trang nghiêm, với nội dung ngợi ca truyền thống hoặc
có tính chất kêu gọi, hiệu triệu. Đường nét giai điệu và tiết tấu gần gũi với ca khúc hành khúc
nhưng thể hiện tính chất trang nghiêm nhiều hơn.
39. Quốc tế ca (trích)
Nhịp đi
1.3. Ngợi ca: là những ca khúc có tính chất suy tưởng, triết lý như những bài ca ngợi đất
nước, ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi anh hùng... Tình chất âm nhạc thường biểu hiện sự trang nghiêm,
đồng thời còn có tính trữ tình, ngâm ngợi, tự sự, kể chuyện... Đó là các bài: Ca ngợi Hồ Chủ
Tịch (Lưu Hữu Phước), Người là niềm tin tất thắng (Chu Minh), Lời anh vọng mãi ngàn năm
(Vũ Thanh), Nguyễn Viết Xuân cả nước yêu thương (Nguyễn Đức Toàn) v.v...
40. Chu Minh: Người là niềm tin tất thắng (trích)
Trang trọng, sôi nổi, thiết tha
1.4. Trữ tình: là những ca khúc có giai điệu mềm mại, uyển chuyển. Nội dung của các
bài ca ấy là những đề tài viết về phong cảnh thiên nhiên, làng quê, thôn xóm, vẻ đẹp trong lao
động, về tình yêu nói chung hoặc tình yêu đôi lứa... Ở những bài hát này có lối tiến hành giai
điệu ít những quãng nhảy xa, thường đi liền bậc hoặc lượn sóng; tiết tấu dàn trải, tự do để
cùng với giai điệu tô đậm cho tính chất nhẹ nhàng, bay bổng trong cách biểu hiện. Đó là các
bài như: Con kênh kênh xanh xanh (Ngô Huỳnh), Làng tôi (Văn Cao), Quê em (Nguyễn Đức
Toàn), Đường lên Tây Bắc (Văn An), Tình em (Huy Du), Ngọn đèn đứng gác (Hoàng Hiệp),
74
Tuổi đời mênh mông (Trịnh Công Sơn), Tiếng hát anh tìm em (Hoàng Dương) v.v...
41. Hoàng Dương: Tiếng hát anh tìm em (trích)
Chậm vừa, tình cảm
1.5. Hát ru: là những ca khúc nhịp độ chậm, vừa phải; giai điệu thường được tiến hành
liền bậc, không dùng những quãng nhảy xa liên tục, những biến âm đột ngột; tiết tấu nhịp
nhàng, có tính chu kỳ hoặc tự do. Đó là các bài như: Mẹ yêu con (Nguyễn Văn Tý), Từ trên
đỉnh núi (Nguyên Nhung), Lời ngọt ngào (Nguyễn Quỳnh Hợp), Khúc hát ru (Vĩnh Cát) v.v...
42. Vĩnh Cát: Khúc hát ru (trích)
Nhịp hơi tự do – Tâm tình – Sâu lắng
1.6. Hò vè: là những bài ca được phỏng theo âm điệu, hoặc tiết tấu của những bài hò, vè
trong âm nhạc dân gian. Có bài còn kế thừa lối cấu trúc của điệu hò dân gian có vế xướng, vế
xô để hình thành tác phẩm. Có thể điểm ra một số bài như: Mùa lúa chín (Hoàng Việt), Hò đắp
đường thống nhất (Tạ Phước, Tô Vũ), Hò kéo gỗ (Lê Yên), Thanh Hóa anh hùng (Hoàng Đạm),
Vè thắng giặc (Hoàng Vân) v.v...
43. Tạ Phước – Tô Vũ: Hò đắp đường thống nhất (trích)
Mạnh
75
1.7. Ca khúc kết hợp với trò chơi: là những bài ca có nội dung cụ thể, vừa hát vừa có
những động tác để biểu hiện nội dung. Trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều nhạc
sỹ đã sáng tác những ca khúc ở loại hình này để phục vụ cho tập thể bộ đội, dân công trong
những phút nghỉ ngơi, sau những giờ luyện tập, lao động phục vụ chiến trường; đồng thời còn
đáp ứng cho những sinh hoạt vui chơi của thanh thiếu niên. Những bài ca ấy thường có giai điệu
dễ hát, dễ thuộc như các bài Lửa rừng (Đỗ Nhuận), Lỳ và Sáo (Văn Chung).
1.8. Ca khúc hài hước, dí dỏm, trào phúng: là những bài ca có lời ca và âm nhạc kết hợp
rất chặt chẽ thông qua các phương pháp diễn tả của âm nhạc để biểu hiện được nội dung. Giai
điệu thường xuất hiện những quãng nhảy xa, đột ngột hoặc nói sai với ngữ điệu bình thường và
thường dùng đảo phách trong âm hình tiết tấu, tạo sự “hẫng, hụt” bất ngờ trong nhịp điệu v.v...
Ta có thể kể một số bài như: Thằng Bờm (Nguyễn Xuân Khoát), Con mèo mà trèo cây cau (Lê
Yên), Chiếc xe lu (Huy Du), Đế quốc Mỹ là thân con ruồi (Trọng Bằng) v.v...
44. Lê Yên: Con mèo mà trèo cây cau (Lời: Ca dao cổ) (trích)
Dí dỏm
Sự phân loại ca khúc như trên trình bày cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi lẽ một bài hát
có thể vừa có tính chất của loại này, vừa có tính chất của loại kia.
Người ta còn sử dụng các tiêu chí phân loại khác nhau như ca khúc viết cho thiếu nhi và
cho người lớn. Loại viết cho các em nhỏ phụ thuộc vào âm vực (tầm cữ giọng) của lứa tuổi và
76
nội dung cần phù hợp với tâm sinh lý của các em. Đồng thời, còn được phân loại theo cách sử
dụng như ca khúc tập thể (viết cho đông đảo quần chúng) và ca khúc cho đơn ca. Ca khúc đơn
ca đòi hỏi sự chuyên biệt cho từng loại giọng trình diễn khác nhau, phức tạp hơn về kỹ thuật
sáng tác và luôn luôn phải có phần đệm của nhạc đàn.
2. Trường ca
Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, giai đoạn từ 1946-1954 xuất hiện những bài ca có khuôn
khổ dài, cầu trúc khá đặc biệt như: Người Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Tiếng chuông nhà thờ
(Nguyễn Xuân Khoát), Trận Đoan Hùng (Lê Yên-Lưu Quang Thuận), Sông Lô (Văn Cao),
Ngày Về (Lương Ngọc Trác – Chính Hữu), Bình ca (Nguyễn Đình Phúc), Bộ đội về làng (Lê
Yên – Hoàng Trung Thông), Những gác chuông giáo đường (Huy Du - Hữu Loan) v.v... và ở
giai đoạn sau, trong những năm 60 của thế kỷ XX, Hoàng Vân đã sáng tác một số bài cũng ở
dạng đó như: Tôi là người thợ mỏ, Người chiến sĩ ấy v.v...
Các bài ca ấy gồm nhiều phần tương phản nhưng giữa chúng vẫn có mối liên quan thống
nhất chung trong tư duy âm nhạc.
3. Romance (rô-măng-xơ)
Romance là tác phẩm viết cho giọng hát có phần đệm của nhạc đàn, thường có khuôn khổ
vừa phải. Hầu hết các nhà soạn nhạc trên thế giới từ cổ điển tới lãng mạn và hiện đại đều viết
cho thể loại thanh nhạc này. Các nhạc sĩ Việt Nam nhiều người đã viết cho thể loại romance.
Tên gọi romance gốc từ tiếng Tây Ban Nha. Thoạt đầu có ý nghĩa là bài hát thế tục, đơn
giản hát bằng tiếng roman, tức tiếng Tây Ban Nha, để phân biệt với loại bài hát bằng tiếng La-
tinh. Ngoài tính trữ tình ca ngợi tình yêu, romance còn có thể mô tả sự suy nghĩ trầm ngâm,
những tình cảm đau thương, ôn lại những kỉ niệm xa xưa hoặc tình yêu với thiên nhiên.
Romance thường có cấu trúc ở hình thức ba đoạn đơn, hai đoạn đơn. Tuy nhiên cũng gặp
những bài có cấu trúc phức tạp hơn.
Vai trò phần đệm của nhạc đàn trong romance có vị trí quan trọng để góp phần diễn tả rõ
hơn hình tượng của giai điệu, tạo màu sắc cho giai điệu.
Tác phẩm Bài ca hi vọng của Văn Ký là một trong những romance tiêu biểu của Việt
Nam.
4. Hợp ca
Hợp ca là một trong những loại hình của thanh nhạc, gồm từ hai giọng hát trở lên, có tên
gọi là :
- Song ca - đuy-ô (duo): hợp ca 2 giọng hát.
- Tam ca - t’ri-ô (trio): hợp ca 3 giọng hát.
- Tứ ca - ca-chuy-ô (quatuor): hợp ca 4 giọng hát.
Và có các loại hợp ca 5, 6, 7 giọng hát.
Hợp ca là tiết mục nào đó trong nhạc kịch, đồng thời còn là tác phẩm độc lập.
77
Khác với kịch nói, trong nhạc kịch một số nhân vật cùng trong một thời điểm có những ý
nghĩ, tình cảm khác nhau nhưng trình diễn cùng lúc. Người nghe không những có khả năng
cùng lúc tiếp thu nhiều giai điệu mà còn phân tích được mối quan hệ giữa các giai điệu ấy với
nhau.
Hợp ca luôn có phần đệm của nhạc đàn và các tác phẩm ấy được viết cho từng loại giọng
nhất định.
5. Hợp xướng
Hợp xướng là tác phẩm thanh nhạc có nhiều bè, mỗi bè do các ca sĩ cùng một loại giọng
trình bày.
Hợp xướng là tiết mục trong nhạc kịch, thanh xướng kịch, đồng thời còn là những tác
phẩm độc lập.
Hợp xướng được phân thành nhiều loại: hợp xướng nam, hợp xướng nữ, hợp xướng hỗn
hợp (gồm cả giọng nam và giọng nữ) hợp xướng trẻ em, hợp xướng không nhạc đệm (a capella
= a ca-pe-la).
Hợp xướng nam với âm thanh đầy đặn tạo tính kịch mạnh mẽ, thường sử dụng trong
những trường hợp gây không khí trang nghiêm, kiên nghị, hùng tráng.
Hợp xướng nữ hay dùng để miêu tả những cảm xúc tươi mát, nhẹ nhàng, ấm cúng.
Hợp xướng hỗn hợp gồm các loại giọng hát của nam và nữ tạo ra màu sắc phong phú để
biểu hiện nhiều nội dung hình tượng âm nhạc đa dạng.
Hợp xướng trẻ em thường thể hiện những cảm xúc, suy nghĩ phù hợp với lứa tuổi góp
phần tạo ra các màu sắc, tình huống trong cuộc sống hồn nhiên của các em nói riêng và của đời
sống xã hội nói chung.
Hợp xướng không nhạc đệm là một loại hình chỉ dùng giọng hát để thể hiện các hình tượng
âm nhạc khác nhau. Thính giả sẽ thưởng thức sự hài hòa của các loại giọng mà không bị âm thanh
của các nhạc khí che lấp.
Cấu trúc của các bản hợp xướng hay các chương trong một bản hợp xướng thường viết ở
các hình thức một đoạn đơn, hai đoạn đơn, ba đoạn đơn, rondo, biến tấu.
Nhiều nhạc sĩ Việt Nam đã sáng tác hợp xướng để biểu hiện tâm tư, tình cảm của con
người.
Những ca khúc hợp xướng thành công như: Sóng Cửa Tùng (Doãn Nho), Đông Nam Á
Châu (Lưu Hữu Phước), Dưới ánh sao vàng (Vân Đông), Ca ngợi Tổ quốc (Hồ Bắc) Thề quyết
bảo vệ Tổ quốc (Huy Du), Biết mấy tự hào Việt Nam Tổ quốc ta (Phạm Đình Sáu) v.v...
Những bản hợp xướng nhiều chương như: Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy (Tô Hải),
Việt Nam muôn năm (Nhạc: Hoàng Vân, thơ: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Bùi Minh Quốc), Tiến
lên toàn thắng ắt về ta (Đỗ Dũng - Trần Nhật Lam) v.v...
Bản hợp xướng Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy của Tô Hải là một trong những bản hợp
xướng nhiều chương được nhiều người yêu thích và luôn được trình diễn từ thập niên 60 của thế
78
kỷ XX tới nay.
Bản hợp xướng có bốn chương, mỗi chương