Mác không có bất cứmột chuyên luận nào trực tiếp nói tới
công tác bảo tồn và nghiên cứu thưtịch cổ. Nhưng trên
con đường hoạt động khoa học gắn liền với cách mạng đầy
sáng tạo của mình, Mác đã đểlại cho ta không ít những
mẫu mực tuyệt vời vềcách nhìn, cách đánh giá, cách khai
thác di sản thành văn của các thếhệ đã qua.
1) Hãy nói trước hết cách nhìn của Mác đối với kho tàng
văn hóa nhân loại. Quá khứ, theo Mác, là một kho lưu trữ
hết sức phong phú những kinh nghiệm kỳquý vềcảhai
phương diện thất bại cũng nhưthành công của con người
đối với bản thân, đối với xã hội, đối với thiên nhiên Quá
khứkhông ngừng cung cấp cho ta những tưliệu và chủ đề
cần thiết đểthao khảo, suy tư, từ đó nảy ra những bài học
bổích. Về điểm này, Ăng - ghen có nhận xét nhưsau:
“Mác không những đặc biệt ham thích nghiên cứu quá
khứlịch sửnước Pháp mà còn theo dõi lịch sử đương thời
của nó trong tất cảnhững chi tiết, thu thập lấy những tài
liệu đểvềsau cần phải dùng đến”(1). Chính vì vậy mà Mác
đã qua tâm tới các nền văn hóa cổngay khi còn ngồi trên
ghếnhà trường; luận văn tiến sĩSựkhác nhau giữa triết
học của Đêmôcrit (Đémocrite) và triết học tựnhiên của
Epiquya (Epicure) có thểcoi nhưmột thểnghiệm sơkhởi
trên đường nghiên cứu quá khứ. Các tác phẩm khoa học
vềsau của Mác,
174 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác hán nôm dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÔNG TÁC HÁN NÔM DƯỚI ÁNH
SÁNG CHỦ NGHĨA MÁC
CÔNG TÁC HÁN NÔM DƯỚI ÁNH SÁNG CHỦ NGHĨA
MÁC
TRẦN NGHĨA
I
Mác không có bất cứ một chuyên luận nào trực tiếp nói tới
công tác bảo tồn và nghiên cứu thư tịch cổ. Nhưng trên
con đường hoạt động khoa học gắn liền với cách mạng đầy
sáng tạo của mình, Mác đã để lại cho ta không ít những
mẫu mực tuyệt vời về cách nhìn, cách đánh giá, cách khai
thác di sản thành văn của các thế hệ đã qua.
1) Hãy nói trước hết cách nhìn của Mác đối với kho tàng
văn hóa nhân loại. Quá khứ, theo Mác, là một kho lưu trữ
hết sức phong phú những kinh nghiệm kỳ quý về cả hai
phương diện thất bại cũng như thành công của con người
đối với bản thân, đối với xã hội, đối với thiên nhiên Quá
khứ không ngừng cung cấp cho ta những tư liệu và chủ đề
cần thiết để thao khảo, suy tư, từ đó nảy ra những bài học
bổ ích. Về điểm này, Ăng - ghen có nhận xét như sau:
“Mác không những đặc biệt ham thích nghiên cứu quá
khứ lịch sử nước Pháp mà còn theo dõi lịch sử đương thời
của nó trong tất cả những chi tiết, thu thập lấy những tài
liệu để về sau cần phải dùng đến”(1). Chính vì vậy mà Mác
đã qua tâm tới các nền văn hóa cổ ngay khi còn ngồi trên
ghế nhà trường; luận văn tiến sĩ Sự khác nhau giữa triết
học của Đêmôcrit (Đémocrite) và triết học tự nhiên của
Epiquya (Epicure) có thể coi như một thể nghiệm sơ khởi
trên đường nghiên cứu quá khứ. Các tác phẩm khoa học
về sau của Mác, trong đó có bản Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản nổi tiếng và bộ Tư bản đầy trí tuệ, là bằng chứng
về một quá trình lao động cần cù, căng thẳng để chưng cất
và tiếp thu toàn bộ tinh hoa của tri thức loài người kể đến
thời Mác, và nâng nó lên một tầm độ cao hơn. Thật đúng
như Lênin nhận định: “Tất cả những cái đã được tư tưởng
loài người sáng tạo ra, Mác đều sửa chữa nó lại và đã phê
phán nó; và Mác đã rút ra được kết luận mà những kẻ bị
giam hãm trong khuôn khổ tư sản hay những thành kiến
tư sản không thể nào rút ra được”(2).
Chỗ hơn người ấy của Mác trong cách nhìn về giá trị và
tiềm năng nền văn hóa quá khứ đã được Lênin, người học
trò xuất sắc nhất hội lần thứ ba Đoàn thanh niên Cộng sản
Nga ngày 02 tháng 10 năm 1920, Lênin nhấn mạnh: “Văn
hóa vô sản không phải tự nhiên mà có, nó không phải do
những người tự cho mình là nhà chuyên môn về văn hóa
vô sản phát minh ra. Tất cả cái đó là hoàn toàn ngu ngốc.
Văn hóa vô sản phải là sự phát triển lô gích của tổng số
những kiến thức mà loài người đã tạo ra dưới ách thống
trị của xã hội tư bản, của xã hội bọn địa chủ, của xã hội
quan liêu”(3). Lê nin còn nói thêm: “Người ta chỉ có thể
trở thành người cộng sản sau khi đã làm giàu trí nhớ của
mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà
nhân loại đã tạo ra”(4).
2) Không những coi trọng di sản văn hóa quá khứ của
nhân loại, Mác còn đặc biệt quan tâm đến cách phân tích,
đánh giá nó thế nào cho khách quan, chính xác, nhất là đối
với một số nhân vật, tác phẩm, tác giả có vấn đề. ở đây,
một lần nữa, ta lại bắt gặp những chỗ hơn người của Mác.
Hãy lấy trường hợp của Mác đánh giá Lui Bônapactơ làm
một trong số nhiều thí dụ.
Lui Bônapactơ (Cliarles Louis Napolêon Bonapate, 1808 -
1873), như chúng ta biết, là cháu của Napôlêông
Bônapactơ (Napolêon Bonaparte, 1769 - 1821). Hồi còn
trẻ, do giở nhiều mưu mô thủ đoạn trong quân đội, Lui
Bônapactơ đã bị trục xuất ra nước ngoài. Sau cách mạng
tháng hai Pháp 1848, y trở về nước và đắc cử tổng thống
“Đệ nhị Cộng hoà quốc”, dưới sự bảo trợ của giai cấp tư
sản Pháp. Năm 1852, cũng với sự giúp đỡ của giai cấp tư
sản, y phát động chính biến, phế bỏ chính thể Cộng hòa,
khôi phục chính thể Quân chủ, tuyên bố đổi “Đệ nhị Cộng
hoà quốc” thành “Đệ nhị Đế quốc”, và tự xưng làm
“Hoàng Đế Nã Phá Luân tam thế” của nước Pháp.
Trong thời gian cầm quyền, y một mặt thi hành chính sách
đàn áp đối với trong nước và mặt khác phát động chiến
tranh với nước ngoài, gây nhiều đau khổ cho nhân dân
Pháp cũng như nhân dân Châu Âu.
Năm 1870, y lại phát động chiến tranh chống nước Phổ
(Prussia), kết quả quân Pháp thua to, bản thân Lui
Bônapactơ cũng bị bắt.
Cuộc đời đầy kịch tính trên đây của Lui Bônapactơ đã
được nhiều cây bút tiếng tăm đương thời phác họa lại,
trong đó đáng chú ý nhất là tác phẩm Napôlêông nhỏ của
Vichto Huygô (Victor Hugo, 1802 - 1885) và tác
phẩm Cuộc chính biến của Pruđông (Proudhon, 1809 -
1865). Theo Mác thì Vichto Huygô chỉ biết xử mạ chua cay
và châm biếm không tiếc lời người đã gây ra cuộc chính
biến. Huygô thấy bản thân biến cố đó như là “một tiếng sét
giữa bầu trời quang đãng”. Ông chỉ thấy trong đó “hành
vi bạo nghịch của một cá nhân”. Ông không thấy rằng làm
như thế là làm cho cá nhân đó trở thành vĩ đại bằng cách
gán cho hắn một sức mạnh chủ động cá nhân chưa từng
thấy trong lịch sử, chứ không phải làm cho cá nhân đó nhỏ
nhen đi. Còn Pruđông, theo Mác, thì lại cố gắng trình bày
cuộc chính biến như là “Kết quả của một sự phát triển lịch
sử trước đó”. Nhưng dưới ngọn bút của ông, lịch sử cuộc
chính biến lại biến thành “sự ca tụng nhân vật chính của
cuộc chính biến”. Như thế là ông rơi vào sai lầm của các
nhà sử học mệnh danh là “khách quan”. Khác với Vichto
Huygô và Pruđông, Mác vạch cho chúng ta thấy “đấu
tranh giai cấp ở Pháp đã tạo ra như thế nào những điều
kiện và hoàn cảnh khiến cho một nhân vật tầm thường và
lố bịch lại đóng vai anh hùng”(5). Cái mà Victo Huygô
cũng như Pruđông ra sức tô vẽ, dù cố ý hay vô tình, là
quan niệm anh hùng tạo thời thế. Còn Mác trái lại, bằng
quan điểm duy vật lịch sử, đã làm rõ trong trường hợp
này, chính thời thế tạo “anh hùng”.
Cũng một kiểu tiếp cận vấn đề như Mác - đặt đối tượng
nghiên cứu vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó để tìm
hiểu, phân tích, đánh giá - Ăng-ghen đã đi tới những kết
luận rất hay và cố nhiên không giống với nhiều người khi
nhận định về hạn chế của Sécnesepski (Tchernychevski,
1828 - 1889), nhà dân chủ cách mạng Nga. Trong phần
phụ lục cho bài Về tính chất xã hội ở Nag, Ăng-ghen viết:
“Sécnưsépski, vì những điều luận cấm sách báo nhập nội ở
biên giới Nga, nên chưa bao giờ được biết những tác phẩm
của Mác, vì khi bộTư bản xuất bản, thì ông đã bị đày từ
lâu ở Viluixơ, vùng dân Yacutơ (). Những cái mà chế độ
kiểm duyệt Nga không để cho nhập nội, thì ở Nga, người ta
biết rất ít, hay không biết tý gì cả. Vậy, nếu người ta thấy
ở ông có một vài nhược điểm, một vài quan điểm hẹp hòi,
thì chỉ nên lấy làm lạ là tại làm sao ông không có nhiều
hơn thế nữa”(6).
Ngoài phương pháp lịch sử, chủ nghĩa Mác còn đặc biệt
vận dụng phương pháp phân tích giai cấp khi đánh giá các
hiện tượng xã hội cũ, mà trường hợp Ăng-ghen nhận xét
về Gơtơ (Goetthe, 1749 - 1832) sau đây có thể xem như là
một thí dụ điển hình. Gơtơ, theo Ăng-ghen, là một con
người “khi thì to lớn phi thường; khi thì bé như trẻ con”;
“khi thì là một bậc kỳ tài kiêu hãnh, ngạo nghễ, khinh miệt
thế giới; khi thì là một kẻ philitanh tản mạn, tự mãn, hẹp
hòi”. Trong con người Gơtơ có một cuộc đấu tranh liên tục
giữa nhà thơ thiên tài chán ghép sự cùng khổ của những
người chung quanh mình, với người con trai chu đáo của
ông nghị tỉnh Phờrăngpho, đang tự thấy bắt buộc phải “ký
kết đình chiến với sự cùng khổ và phải chịu cho quan sự
cùng khổ đó”. Cuộc đấu tranh nội tâm này rốt cục đã đẩy
Gơtơ đi đâu? Ăng-ghen viết: “Gơtơ là một người học rộng
biết nhiều quá, có một bản chất linh lợi quá, nhiều tham
vọng quá, nên không thể tìm lối thoát của sự khốn cùng
bằng cách chạy theo lý tưởng của Căng (Kant, 1724 - 1804)
như Sinle (Schiller, 1759 - 1805) đã làm; ông sáng suốt quá
nên không thể không thấy rằng chạy trốn như vậy chung
quy lại chỉ là đổi cái cùng khổ của ti tiện lấy cái cùng khổ
của khoa trương. Tính khí ông, sức lực ông, toàn bộ chiều
hướng của trí óc ông đều định sẵn cho ông một cuộc sống
thực tế, nhưng cuộc sống thực tế mà ông thấy trước mắt
ông lại là một cuộc sống cùng khổ. Gơtơ luôn luôn vướng
phải tình trạng lưỡng nan ấy: sống trong một thế giới mà
ông chỉ có khinh miệt thôi, tuy thế mặc dầu, ông lại bị ràng
buộc vào thế giới đó là cái thế giới duy nhất trong đời mà
ông có thể phát huy hoạt động của mình; và khi ông càng
trở về giả, thì con người thi sĩ phi thường, de guerre
lasse(7) lại càng lu mờ sau con người Tể tướng tiểu mọn
của triều Weimar(8). Nghĩa là cuối cùng, bản chất giai cấp
của Gơtơ đã thắng. “Gơtơ cũng như Hê-ghen (Hégel, 1770
- 1831), mỗi người trong lĩnh vực của mình, đều là những
tượng Jupite (Jupiters) trên núi Olimpơ (Olimpiens), song
cả hai đều không bao giờ hoàn toàn trút bỏ được tính chất
philitanh Đức”(9).
Cách phân tích và đánh giá trên đây của Ăng-ghen không
giống chút nào với cách phân tích và đánh giá của Gờ -
run về Gơtơ. “Gờ-run tán tụng tất cả những ý kiến
pilitanh của Gơtơ, hắn ta thấy đó là những ý kiến của con
người, hắn biến Gơtơ từ người dân tỉnh Phờ - răngpho và
người quan lại, thành “con người chân chính”, còn thì hắn
lại bỏ qua hay bôi nhọ ngay cả những cái gì là vĩ đại, là kỳ
tài ở Gơtơ”(10).
Đôi khi những đánh giá khác nhau về cùng một sự kiện,
một tác phẩm, một tác giả quá khứ nào đấy lại là do sự
phân tích tình hình chính trị không giống nhau.
Xuất phát từ tư tưởng duy tâm Jôre (Jaurès) ca ngợi
Tônxtôi (L.Tolstôi, 1828 - 1910) là một nhà thần bí, có thể
giúp ta “tìm lại cái ý nghĩa của tính giản dị, của tình anh
em, của đời sống sâu xa và bí ẩn”(11). Plêkhanốp
(Plékhanov, 1856 - 1918)) vốn dĩ không tin ở khả năng
cách mạng của nông dân, cho rằng Tônxtôi là người thay
mặt giai cấp quý tộc phong kiến bị những tiến bộ của chủ
nghĩa tư bản làm phá sản(12). Còn Lê nin, người thừa kế
và phát triển chân chính chủ nghĩa Mác, thì lại thấy Cách
mạng Nga 1905 - 1907 không gì khác hơn là một cuộc
“Cách mạng tư sản nông dân”, và những tác phẩm của
Tônxtôi đã phản ánh tâm lý mâu thuẫn của người nông
dân Nga trong cuộc cách mạng đó. Lê-nin viết: “Mới thoạt
nhìn, có thể dường như là lạ kỳ và gán ghép nếu đem gắn
liền tên tuổi của nhà nghệ sĩ vĩ đại với cuộc cách mà rõ
ràng ông ta đã không hiểu được gì cả và cũng rõ ràng ông
ta đã xa lánh đi. Dĩ nhiên nếu một vật rõ ràng không phản
ánh được trung thực một hiện tượng, thì làm thế nào mà
gọi nó là tấm gương của hiện tượng đó được. Nhưng cuộc
cách mạng của chúng ta là một hiện tượng cực kỳ phức
tạp; trong đám đông những người thực hiện và trực tiếp
tham gia cách mạng có nhiều phần tử xã hội chính trị, họ
hiển nhiên không hiểu được những việc đã xẩy ra và cũng
rời bỏ những nhiệm vụ lịch sử thực sự mà quá trình các sự
biến đã đề ra cho họ. Và nếu nhà nghệ sĩ của chúng ta là vĩ
đại thật, thì người đó phải phản ánh được trong tác phẩm
của mình ít ra là vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách
mạng (). Tônxtôi vĩ đại là ở chỗ ông đã nói lên được
những tư tưởng và những tâm trạng đã được hình thành
trong hàng triệu nông dân. Nga khi bắt đầu cuộc cách
mạng tư sản Nga. Tôixtôi độc đáo, vì toàn bộ tư tưởng của
ông nhìn chung đã diễn đạt đúng những đặc điểm của cuộc
cách mạng của chúng ta về phương diện là một cuộc cách
mạng tư sản nông dân. Đứng về quan điểm đó mà xét thì
sự phản chiếu những điều kiện mâu thuẫn trong đó đã
diễn ra sự hoạt động lịch sử của nông dân trong quá trình
của cuộc cách mạng của chúng ta”(13).
3) Nhận định, đánh giá di sản là cốt để khai thác. Khai
thác thế nào cho đúng, cho tốt, cũng là một vấn đề Mác
hằng quan tâm.
Việc du nhập văn họa Pháp vào nước Đức, theo Mác, là
một thí dụ điển hình về tình trạng thừa kế, khai thác
không đúng nơi đúng lúc.
Văn học “xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” của
nước Pháp, nói như Mác, “sinh ra dưới áp lực của một giai
cấp tư sản thống trị, là biểu hiện văn chương của sự phản
kháng chống lại nền thống trị ấy, nó được đưa vào nước
Đức giữa lúc giai cấp tư sản đang bắt đầu đấu tranh chống
chế độ chuyên chế phong kiến. Các nhà triết học, các nhà
triết học nửa mùa và những kẻ tài hoa ở Đức hăm hở đổ
xô vào thứ văn học ấy, nhưng có điều họ quên rằng: văn
học Pháp nhập khẩu vào nước Đức, nhưng những điều
kiện sinh hoạt của nước Pháp lại không đồng thời đưa vào
nước Đức. Đối với những điều kiện sinh hoạt Đức, văn học
Pháp ấy đã mất hết ý nghĩa thực tiễn trực tiếp và chỉ còn
mang một tính chất thuần tuý văn chương”(14).
Thực ra thì đây là một việc làm có dụng ý của giới triếu
học Đức, chứ không hẳn là một sai lầm đơn thuần về mặt
phương pháp. Mác bình luận: Bằng cách này, người ta “rõ
ràng cắt xén văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa Pháp. Và vì trong tay người Đức, văn học ấy không
còn là biểu hiện của cuộc đấu tranh của một giai cấp này
chống giai cấp khác nữa, cho nên họ lấy làm đắc ý là đã
vượt lên trên “tính phiến diện của Pháp”, là đã bảo vệ,
không phải những nhu cầu thực sự, mà là “nhu cầu về sự
thật”; không phải những lợi ích của người vô sản, mà là
những lợi ích của con người, con người nói chung, “của
con người không thuộc một giai cấp nào, cũng không
thuộc một thực tại nào, con người chỉ có trong bầu trời
mây mù của ảo tưởng triết học”(15). ý Mác ở đây muốn
nói các nhà triết học Đức đã tước bỏ phần cách mạng của
văn học Pháp khi du nhập nó vào Đức, và do vậy, việc Đức
tiếp thu văn học Pháp chỉ còn mỗi một tác dụng là làm tê
liệt ý chí cách mạng của người Đức mà thôi.
Nói đến di sản tức đã bao hàm một phân lượng nào đấy
giá trị của nó đối với hiện tại. Nhưng như vậy không có
nghĩa là mọi di sản đều có thể thừa kế trong bất cứ hoàn
cảnh nào, cho dù đấy là những giá trị bền vững nhất. Cuộc
sống hiện thực thường đề ra những nhu cầu và nhiệm vụ
mỗi lúc một khác nhau, đặc biệt là trong các thời kỳ khủng
hoảng cách mạng, cái cũ chưa qua, cái mới chưa đến. Các
giá trị truyền thống ở đây có thể có hai tác dụng ngược
chiều nhau: hoặc nâng đỡ, thúc đẩy xã hội đi lên, hoặc
ngăn trở, kìm hãm bước tiến của nó. Mác viết: “Con người
làm ra lịch sử của mình, nhưng không phải làm theo ý
muốn tuỳ tiện của mình trong những điều kiện tự mình
chọn lấy, mà là làm theo những điều kiện nhất định trực
tiếp sẵn có, do quá khứ để lại. Truyền thống của tất cả các
thế hệ đã qua đè rất nặng lên đầu óc những người đang
sống. Và ngay khi con người có vẻ như là đang ra sức tự
cải tạo mình và cải tạo sự vật, ra sức sáng tạo ra một cái gì
hoàn toàn mới mẻ, thì chính trong những thời kỳ khủng
hoảng cách mạng đó, họ lại sợ hãi mà cầu viện đến các
vong linh thời trước, họ lại mượn tên tuổi, khẩu hiệu, y
phục của những vong linh đó, để rồi đội cái lốt đáng kính
ấy của người xưa, và dùng những lời lẽ vay mượn đó mà
hiện ra trên sân khấu mới của lịch sử”(16). Điểm đáng chú
ý là “người mới bắt đầu học một ngôn ngữ mới, bao giờ
cũng dịch nó trong đầu óc sang tiếng mẹ đẻ của mình”, chỉ
khi nào người đó đã dùng được ngôn ngữ ấy mà không
nhớ đến thậm chí còn quên hẳn được tiếng mẹ đẻ của
mình, thì người đó mới “nói được một cách trôi chảy”(17).
Lấy trường hợp xã hội tư sản đã kế thừa quá khứ như thế
nào làm một dẫn chứng. Xã hội tư sản theo Mác, “vì hoàn
toàn mê mải vào việc sản xuất của cải và các cuộc cạnh
tranh hoà bình nên nó đã quên mất rằng vong hồn của
thời đại La Mã đã chăm sóc nó khi nó còn ở trong nôi()
Cũng như () Cơrôvoen (Crowen) và nhân dân Anh đã
mượn trong kinh Cựu ước những câu nói, những nhiệt
tình và những ảo tưởng cần thiết cho cuộc cách mạng tư
sản của nó. Khi đã đạt được mục đích thực sự rồi, nghãi là
khi đã biến xã hội Anh thành xã hội tư sản rồi, thì Lốc -
cơ(18) đã gạt bỏ Ha-ba-cúc”(19). Nghĩa là bây giờ thì xã
hội tư sản muốn chóng vánh thoát khỏi sự ràng buộc của
truyền thống quá khứ để được bay nhảy tự do
Từ thực tế trên, Mác rút ra một hệ luận: “Trong các cuộc
cách mạng ấy, người ta làm sống lại những người đã mất
là để ca ngợi cuộc đấu tranh mới, chứ không phải là để học
đòi theo những cuộc đấu tranh cũ; là để phóng đại trong
tưởng tượng cái nhiệm vụ phải hoàn thành, chứ không
phải để trốn tránh khỏi phải giải quyết những cuộc đấu
tranh mới trong thực tế; là để tìm lấy cái tinh thần của
cách mạng, chứ không phải là để một lần nữa triệu cái
bóng ma của nó về”(20). Nếu không hiểu điều này - tức
thừa kế, khai thác là nhằm phục vụ cho yêu cầu đi tới, yêu
cầu phát triển của xã hội - thì việc thừa kế khai thác đó
không những trở thành vô nghĩa, mà đôi khi lại còn là một
khôi hài nữa: “Hê-ghen có nhận xét ở đâu đó rằng tất cả
những sự biến lớn và nhân vật lớn trong lịch sử đều xuất
hiện có thể nói là hai lần. Ông ta đã quên nói thêm rằng:
lần đầu như một bi kịch, lần thứ hai như một trò hề” (21).
II
1) Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác, Đảng ta ngay từ hồi
còn hoạt động bí mật đã quan tâm đến vấn đề tiếp thu vốn
cổ. Trong bản Đề cương văn hóa năm 1943, nhiệm vụ kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc được
đồng chí Trường Chinh nêu lên như một khâu không thể
thiếu trong chương trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tương lai. Từ sau 1945, khi Đảng ta giành được chính
quyền, đường hướng trên đây một lần nữa được khẳng
định với tầm sâu sắc mới: “Trong văn học cổ nước ta có
nhiều hạt ngọc bị che phủ bởi một lớp bụi thời gian, mà
bổn phận chúng ta phải tìm tòi, nhận xét, lượm lặt, không
được bỏ sót một hạt”(22). Năm 1962, nói chuyện với Hội
nghị Tuyên giáo toàn miền Bắc, đồng chí Lê Duẩn cũng
nhắc nhở cán bộ phải đọc lịch sử nước nhà, chú ý khai
thác truyền thống, có thể mới làm tốt được công tác tư
tưởng trước mắt(23). Năm 1970, trong tác phẩmDưới lá cờ
vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến
lên giành những thắng lợi mới, và năm 1976, trong
bài Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nạm thống
nhất xã hội chủ nghĩa,đồng chí Lê Duẩn đã trình bày
những suy nghĩ trên đây của mình một cách hoàn chỉnh
hơn. Nói về con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí
nhấn mạnh: “Con người xã hội chủ nghĩa của nước ta
không những phải hấp thụ được những thành tựu mới
nhất của nền văn minh hiện đại, mà còn phải kế thừa và
phát triển những đức tính tốt đẹp tiêu biểu cho tâm hồn
của con người Việt Nam được hun đúc suốt bốn ngàn năm
lịch sử”(24). Nói về văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa
đồng chí nêu rõ: “Mục đích của chúng ta là xây dựng một
xã hội văn hóa cao. Nền văn hóa trong xã hội ấy là một nền
văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Nó phải được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng làm chủ tập thể, phải hấp thụ có chọn lọc những
thành quả của văn minh nhân loại và những thành tựu
văn hóa khoa học hiện đại. Đồng thời nó phải là sự kết tinh
và nâng lên một tầm cao mới những gì tốt đẹp nhất trong
truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của
văn hóa Việt Nam”(25).
Có thể lấy việc tiếp thu vốn cổ trong tầm nhìn của Đảng ta
chưa bao giờ đặt nhẹ, nhất là trước nhiệm vụ xây dựng
nền văn hóa mới và con người mới Việt Nam.
Sự quan tâm trên đây không chỉ thể hiện ở phạm vi lý
luận, mà còn được quán triệt trong hành động thực tế,
nhất là đối với công tác xây dựng ngành Hán nôm Việt
Nam. Ngay từ cuối năm 1965, trong khi cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ đang lan rộng trên
miền Bắc nước ta, một lớp Đại học Hán học nhằm đào tạo
một đội ngũ cán bộ Hán nôm trẻ tuổi, chuyên đảm nhiệm
việc khai thác, nghiên cứu và giới thiệu kho tàng văn hóa
Việt Nam đã được tổ chức tại một địa điểm sơ tán cách Hà
Nội 50Km về phía Đông Bắc. Lớp học đã được các đồng
chí lãnh đạo Đảng ta, đặc biệt là đồng chí Phạm Văn Đồng
và đồng chí Tố Hữu thường xuyên quan tâm, khích lệ. Nhà
sử học Pháp Sáclơ Phuốcniô (Charles Fourniau) có dịp
đến thăm lớp học, thấy sinh viên ta dựng vũ khi cạnh bàn,
ngồi nghe giảng về triết học Phật giáo, đã phát biểu: “Thời
gian ngắn ngủi lưu lại ở đây đã để lại trong tôi những ấn
tượng sâu sắc và hầu như trái ngược nhau: một nước Việt
Nam