Tóm tắt
E-Learning là một phương pháp dạy học đại học hiện đại nhất hiện nay, đã
phổ biến và phát triển trên thế giới cũng như ở Việt Nam những năm qua, mang lại
nhiều kết quả tốt đẹp. E-Learning là phương pháp giảng dạy có những yếu tố tiếp
cận gần nhất với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). E-Learning
rất phù hợp với các ngành xã hội như luật và kinh tế vốn không đòi hỏi hoạt động thí
nghiệm, thực nghiệm.
Những phát triển vượt bậc về khoa học công nghệ của nhân loại trong các năm
gần đây đã khiến CMCN 4.0 bùng nổ. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này cũng đặt ra
những yêu cầu rất mới, rất cấp bách cho nguồn nhân lực tương lai. Thách thức của
cuộc CMCN này đòi hỏi hệ thống giáo dục Việt Nam, trong đó có đào tạo ngành luật
và kinh tế, cần có những nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò mới của mình mà
việc đầu tiên là phát triển chương trình giáo dục tương thích với nhu cầu của xã hội
trong kỷ nguyên số và cuộc CMCN 4.0.
Bài viết đã hệ thống hóa các lý luận cơ bản về CMCN 4.0 với các thời kỳ giáo
dục đào tạo, E-Learning và ngành luật, kinh tế; nghiên cứu thực trạng đào tạo khối
ngành này tiếp cận xu hướng CMCN 4.0; đánh giá những ưu, nhược điểm, hạn chế
và nguyên nhân, đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển đào tạo E-Learning
ngành luật và kinh tế tại Việt Nam trong xu thế CMCN 4.0.
19 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo E-Learning ngành luật và kinh tế tại Việt Nam với xu thế cách mạng công nghiệp 4.0, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
523
ĐÀO TẠO E-LEARNING NGÀNH LUẬT VÀ KINH TẾ
TẠI VIỆT NAM VỚI XU THẾ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
ThS. Nguyễn Mạnh Hà
Văn phòng luật sư Kết Nối
ThS. Lê Thị Liên Hương
Trường Đại học Thành Tây
Tóm tắt
E-Learning là một phương pháp dạy học đại học hiện đại nhất hiện nay, đã
phổ biến và phát triển trên thế giới cũng như ở Việt Nam những năm qua, mang lại
nhiều kết quả tốt đẹp. E-Learning là phương pháp giảng dạy có những yếu tố tiếp
cận gần nhất với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). E-Learning
rất phù hợp với các ngành xã hội như luật và kinh tế vốn không đòi hỏi hoạt động thí
nghiệm, thực nghiệm.
Những phát triển vượt bậc về khoa học công nghệ của nhân loại trong các năm
gần đây đã khiến CMCN 4.0 bùng nổ. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này cũng đặt ra
những yêu cầu rất mới, rất cấp bách cho nguồn nhân lực tương lai. Thách thức của
cuộc CMCN này đòi hỏi hệ thống giáo dục Việt Nam, trong đó có đào tạo ngành luật
và kinh tế, cần có những nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò mới của mình mà
việc đầu tiên là phát triển chương trình giáo dục tương thích với nhu cầu của xã hội
trong kỷ nguyên số và cuộc CMCN 4.0.
Bài viết đã hệ thống hóa các lý luận cơ bản về CMCN 4.0 với các thời kỳ giáo
dục đào tạo, E-Learning và ngành luật, kinh tế; nghiên cứu thực trạng đào tạo khối
ngành này tiếp cận xu hướng CMCN 4.0; đánh giá những ưu, nhược điểm, hạn chế
và nguyên nhân, đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển đào tạo E-Learning
ngành luật và kinh tế tại Việt Nam trong xu thế CMCN 4.0.
Từ khóa: đào tạo E-Learning, ngành luật và kinh tế, cách mạng công nghiệp 4.0
Trong xã hội hiện đại, hội nhập quốc tế và toàn cầu như ngày nay, khối ngành
luật và kinh tế vẫn luôn đóng vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng cao trong các ngành
có nhu cầu về nhân lực của nền kinh tế tri thức. Hầu như các tổ chức, doanh nghiệp
quốc tế đều bắt buộc có nhân sự ngành này.
Đảm bảo hiệu quả, chất lượng giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội là một
trong những nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các quốc gia và mỗi cá
nhân trong bối cảnh nền kinh tế tri thức hội nhập toàn cầu. Cuộc CMCN 4.0 bùng nổ
đã đánh dấu một bước tiến phát triển vượt bậc về khoa học công nghệ của nhân loại.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng này cũng đặt ra những yêu cầu rất mới cho nguồn nhân
524
lực tương lai. Điều này đòi hỏi hệ thống giáo dục Việt Nam, trong đó đặc biệt là đào
tạo ngành luật và kinh tế cần có những nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò mới
của mình để đáp ứng. Phát triển chương trình giáo dục tương thích với nhu cầu xã
hội trong kỷ nguyên số và cuộc CMCN 4.0 là công việc cấp bách mà các trường đại
học phải làm.
1. Khái quát về Cách mạng công nghiệp 4.0 và đào tạo E-Learning khối
ngành luật, kinh tế
1.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 và các thời kỳ giáo dục đào tạo
Có thể thấy, thế giới đã trải qua 4 cuộc CMCN cho đến nay. Cuộc CMCN thứ
nhất bắt đầu từ năm 1784 với sự ra đời của đầu máy hơi nước, tiếp theo đó là sự phát
triển của các ngành công nghiệp cơ khí và bán tự động. Để phục vụ cho cuộc CMCN
lần nhất, chương trình giáo dục được phát triển trên cơ sở cung cấp càng nhiều kiến
thức càng tốt (tiếp cận nội dung).
Cuộc CMCN thứ hai bắt đầu từ năm 1870 với sự phát triển của ngành năng
lượng và ứng dụng năng lượng vào sản xuất và đời sống, việc sản xuất theo dây
chuyền được phát triển. Trong cuộc CMCN thứ hai, chương trình giáo dục lấy mục
tiêu làm cơ sở để phát triển, xác định trên 3 lĩnh vực: kiến thức, kỹ năng và thái độ
(mô hình KSA).
Cuộc CMCN thứ ba bắt đầu từ năm 1969 với sự phát triển và ứng dụng mạnh mẽ
điện tử và công nghệ thông tin (CNTT) để tự động hoá sản xuất. Có thể nói đây là sự
chuyển biến có tính “đột biến” của nền sản xuất thế giới, xuất hiện sự tương tác giữa
người và máy thông qua sự phát phát triển của công nghệ robot và các ứng dụng CNTT.
Để phục vụ cho cuộc CMCN này, chương trình giáo dục lấy năng lực làm gốc.
Cuộc CMCN lần thứ tư (theo ngôn ngữ tin học là CMCN 4.0) hình thành từ
những năm 2000 (cụm từ “Công nghiệp 4.0” lần đầu xuất hiện năm 2013 trong một
báo cáo của Chính phủ Đức đề cập đến chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa
ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người.).
Đặc trưng của CMCN 4.0 là cuộc cách mạng số, chuyển hóa toàn bộ thế giới
thực thành thế giới số thông qua các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ
nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán
đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (Big data)... Cuộc CMCN 4.0 lần này có sự
ứng dụng rộng rãi và tốc độ ứng dụng rất nhanh đang làm biến đổi mọi nền công
nghiệp ở mọi quốc gia. Tốc độ, bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này chưa hề
có tiền lệ trong lịch sử và sẽ tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất,
quản lý và quản trị. Những đột phá về công nghệ mới trong các lĩnh vực như trí
525
thông minh nhân tạo, robot, mạng Internet tốc độ cực cao, in 3D, công nghệ nano,
công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ
còn tác động mạnh mẽ hơn nữa tới đời sống xã hội.
Khác với phương thức đào tạo đại trà của các thế kỷ trước, CMCN 4.0 chú
trọng đến phương thức đào tạo “cá thể”, “sinh viên làm trung tâm”. Thông qua
những giao lưu quốc tế, các chương trình liên kết qua mạng lưới truyền thông,
Internet, các giáo trình kiến thức đảm bảo gần với quốc tế hơn. Trong cuộc cách
mạng mới (4.0) này, hệ thống giáo dục sẽ bị tác động mạnh mẽ và toàn diện, danh
mục ngành nghề đào tạo sẽ phải điểu chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa
các lĩnh vực rất mỏng manh. Sẽ là sự liên kết của các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử -
sinh, hình thành những nghề đào tạo mới, đặc biệt là những nghề liên quan đến sự
tương tác giữa con người và máy (ví dụ, nghề trợ lý ảo, phục vụ ảo, thư ký ảo)
Những khái niệm E-Learning (đào tạo trực tuyến), phòng học ảo, thầy/cô giáo ảo,
thiết bị ảo sẽ trở thành xu hướng trong hoạt động đào tạo thời gian tới.
1.2. E-Learning
Khái niệm E-Learning
E-Learning (viết tắt của Electronic Learning) theo nghĩa rộng là một thuật ngữ
dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên CNTT và truyền thông. Theo quan điểm
hiện đại, E-Learning là sự phân phát các nội dung học sử dụng các công cụ điện tử
hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng Internet, Intranet trong đó nội dung học
có thể thu được từ các website, đĩa CD, DVD, băng video, audio thông qua máy
tính hay tivi; giảng viên và sinh viên có thể giao tiếp với nhau qua mạng dưới các
hình thức như: thư điện tử, thảo luận trực tuyến, diễn đàn, hội thảo, video
E-Learning có những ưu điểm sau:
Các khóa học E-Learning ngày càng được ưa chuộng bởi tính tiện dụng và linh
hoạt về mặt thời gian cũng như địa điểm. Nó giúp giải quyết nhiều vấn đề khó khăn
khi sinh viên có thể có thể học E-Learning mọi lúc mọi nơi, ở văn phòng, ở nhà hoặc
bất kỳ địa điểm nào thuận tiện và có thể học nhiều lần. Đây là điều mà các phương
pháp giáo dục truyền thống không có được.
Về mặt chi phí, rõ ràng E-Learning có lợi thế hơn hẳn. Theo con số được công
bố tại một hội thảo về giáo dục trực tuyến cuối năm 2013, cùng 1 khóa học và 1 môn
học, sinh viên E-Learning sẽ tiết kiệm được khoảng 50 - 70% tiền học phí so với việc
học tại lớp. Còn theo Brandon Hall - một tổ chức chuyên nghiên cứu về đào tạo trực
tuyến, sinh viên E-Learning sẽ tiết kiệm được 40 - 60% thời gian học so với các khoá
học truyền thống.
526
Tính hấp dẫn: với sự hỗ trợ của công nghệ Multimedia, những bài giảng
tích hợp text, âm thanh, hình ảnh, video minh họa làm tăng thêm tính hấp dẫn
của bài học.
Tính linh hoạt: sinh viên có thể tự điều chỉnh quá trình học, lựa chọn cách học
phù hợp nhất với hoàn cảnh của mình.
Tính cập nhật: nội dung bài học thường xuyên được cập nhật và đổi mới nhằm
đáp ứng tốt nhất và phù hợp nhất với sinh viên.
Học có sự hợp tác, phối hợp: sinh viên có thể dễ dàng trao đổi thông tin với
nhau, với giảng viên qua các diễn đàn, hội thoại, trực tuyến, thư từ
Tâm lý dễ chịu: mọi rào cản về tâm lý giao tiếp của cả giảng viên và sinh viên
dần dần bị xóa bỏ, mọi người tự tin hơn trong việc trao đổi quan điểm.
Các kỹ năng làm việc hợp tác, tự điều chỉnh để thích ứng của sinh viên sẽ được
hoàn thiện không ngừng. Do đó, khi đến với E-Learning, mọi thành phần, không
phân biệt trình độ, giới tính tuổi tác đều có thể tìm cho mình một hướng tiếp cận
khác nhau với vấn đề mà không bị ràng buộc trong một khuôn khổ cụ thể nào (cá
nhân hoặc sinh viên).
E-Learning có những nhược điểm:
Sự giao tiếp cần thiết giữa giảng viên và sinh viên bị phá vỡ.
Sinh viên bị hạn chế về rèn kỹ năng giao tiếp xã hội.
Đối với những môn học mang tính thực nghiệm, sinh viên ít có cơ hội thao tác
thực hành thí nghiệm, kỹ năng nghiên cứu thực nghiệm.
1.3. Khối ngành luật và kinh tế trong giáo dục đào tạo
Luật và kinh tế là đối tượng được loài người quan tâm từ rất sớm vì chúng giữ vai
trò hết sức cần thiết và quan trọng trong đời sống xã hội. Con người không thể sống
trong một xã hội không có luật lệ và làm kinh tế để tồn tại, phát triển. Cho đến nay,
ngành này vẫn giữ được vai trò đó và ngày càng được nghiên cứu, đào tạo sâu, rộng để
đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới.
Với giáo dục truyền thống, tại các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế (OECD) khối ngành luật và quản trị kinh doanh chiếm tỷ lệ lớn nhất là
23% trong tổng số 9 khối ngành đào tạo năm 2015 và chiếm 40% tỷ trọng các ngành
xã hội và nhân văn, nhóm ngành phát huy được ưu điểm của đào tạo E-Learning.
527
Biểu đồ 1. Tỷ trọng các ngành đào tạo đại học trong khối các nước OECD năm 2015
Nguồn: Education at a Glance: OECD Indicators 2017 [11]
Với Việt Nam, từ thập kỷ 90 đến nay (bước sang nền kinh tế thị trường),
ngành luật và kinh tế đặc biệt được dạy, học nhiều do nhu cầu đời sống kinh tế xã hội
tăng lên.
Có thể thấy rằng khối ngành luật, kinh tế gặp phải ít hơn những khó khăn,
nhược điểm mà tận dụng được các ưu điểm của đào tạo E-Learning do là khối ngành
khoa học xã hội, không phải là khối ngành khoa học tự nhiên, thực nghiệm. Vì vậy,
về cơ sở lý luận là có thể phát triển tốt đào tạo E-Learning khối ngành này phù hợp
với xu thể công nghệ giáo dục và CMCN 4.0 trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
2. Thực trạng đào tạo E-Learning ngành luật và kinh tế
2.1. Trên thế giới
Cho đến nay, E-Learning là phương pháp đào tạo đại học sử dụng nhiều công
nghệ nhất, tiệm cận với xu hướng CMCN 4.0. E-Learning có lịch sử được tính từ
năm 1924 với việc Giáo sư Sydney Pressney thuộc Đại học tổng hợp Ohio (Mỹ) phát
minh ra máy “Giáo viên tự động”, thiết bị học tập điện tử đầu tiên trên thế giới. Mới
chỉ qua vài ba thập kỷ, cùng với sự ra đời và phát triển như vũ bão của công nghệ
thông tin, truyền thông cũng như những đổi mới của phương pháp giáo dục đào tạo,
nhiều nước phát triển trên thế giới đã triển khai mạnh mẽ E-Learning trong hệ thống
giáo dục trên cả nước như Mỹ, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản
Nhìn tổng thể, hiện nay hình thức đào tạo trực tuyến trên thế giới phát triển
mạnh với 5,8 triệu sinh viên đang theo học các khóa đào tạo trực tuyến, tăng 263%
528
trong vòng 12 năm qua. Tuy nhiên, sự phát triển trên diễn ra không đồng đều giữa
các vùng trên thế giới. Theo báo cáo tại Diễn đàn hàng đầu châu Á về Công nghệ
Giáo dục Edtech Asia Summit 2016, nước Mỹ có sự phát triển mạnh nhất với 28%
sinh viên đại học ở Mỹ đang học ít nhất một khóa học trực tuyến, 61% trong 4.800
trường đại học và cao đẳng Hoa Kỳ có sinh viên đăng ký học chương trình trực tuyến
và dự báo 98% sinh viên Mỹ sẽ theo học ít nhất một khóa học trực tuyến trong 10
năm tới [6].
Mặc dù châu Á (trong đó có Việt Nam) là khu vực chưa phát triển mạnh E-
Learning như các nước phát triển nhưng được đánh giá là có tiềm năng lớn. Cũng
theo báo cáo tại Diễn đàn Edtech Asia Summit 2016, 50% trong tổng số hàng trăm
triệu sinh viên đại học ở châu Á sẽ theo học các khóa trực tuyến trong 10 năm tới,
với các trường đại học top đầu tham gia cung cấp các khóa học có chất lượng tương
tự hoặc thậm chí tốt hơn các chương trình truyền thống [6].
Biểu đồ 2. Vốn đầu tư vào giáo dục công nghệ năm 2013 - 2016
Đơn vị: tỷ USD
2
5
6
10
0 2 4 6 8 10 12
N.2013
N. 2016
Toàn cầu
Châu Á
Nguồn: Diễn đàn Edtech Asia Summit 2016 [6]
Qua biểu đồ trên ta thấy: nếu như năm 2013, tổng vốn đầu tư vào giáo dục
công nghệ (GDCN) toàn cầu là 6 tỷ USD thì tới năm 2016 đã là 10 tỷ USD, tăng 4 tỷ
USD hay 67%. Riêng châu Á, năm 2013 vốn đầu tư vào GDCN là 2 tỷ USD chiếm
33% tổng vốn đầu tư toàn cầu thì năm 2016 đã là 5 tỷ USD tăng 3 tỷ USD hay tăng
150% so với năm 2013 và tỷ trọng là 50% trong tổng vốn, tăng so với tỷ trọng này là
33% năm 2013. Như vậy, vốn đầu tư vào GDCN tại các nước châu Á và Đông Nam
Á nói riêng đang phát triển rất mạnh trong xu thế phát triển mạnh của toàn cầu.
2.2. Đào tạo E-Learning ngành luật và kinh tế ở Việt Nam
a. Cơ chế chính sách vĩ mô
Tuy việc học trực tuyến đã không còn mới mẻ ở các nước trên thế giới, song ở
Việt Nam, nó mới chỉ bắt đầu phát triển một số năm gần đây. Sự hữu ích, tiện lợi của
529
E-Learning thì đã rõ nhưng để đạt được thành công, các cấp quản lý cần có những
quyết sách hợp lý.
CNTT đối với giáo dục Việt Nam phát triển nhảy vọt khi bước vào thế kỉ 21
với hàng loạt quyết sách mạnh mẽ như: Chỉ thị 58/CT-TW ngày 17/02/2000 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; Chỉ thị số 29/CT-TW (năm 2001) về việc tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin trong giai đoạn giáo dục 2002 - 2003 và Chỉ thị số 55/CT-
TW (năm 2008) về việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giai đoạn
giáo dục 2008 - 2012.
Trong Chỉ thị 16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư được ban hành ngày 4/5/2017 vừa qua, một trong những giải
pháp Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện là
phải thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục nhằm tạo ra
nguồn nhân lực có khả năng tiếp cận các xu thế công nghệ sản xuất mới; nâng cao
năng lực nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học; đồng thời tăng
cường giáo dục những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng tạo, khả năng thích
nghi với những yêu cầu của CMCN 4.0 [8].
Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã cho phép đào tạo và cấp bằng
đại học hệ chính quy, vừa học vừa làm và E-Learning. Bộ trưởng Bộ GDĐT đã ra
Chỉ thị số 2699/CT-BGDĐT về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2017 - 2018 của ngành
Giáo dục, yêu cầu áp dụng mạnh mẽ phương pháp học trực tuyến (E-Learning), kết
hợp giữa phương pháp học truyền thống với học trực tuyến (Blended Learning) để
tạo thuận lợi cho nhiều người học tập, nâng cao chất lượng nghề nghiệp, đáp ứng yêu
cầu thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế và CMCN 4.0 [5]
b. Các giai đoạn hình thành và phát triển E-Learning tại Việt Nam
Năm 1998-2003:
Các tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về E-Learning không nhiều. Hình thức học
tập từ xa chủ yếu qua băng đĩa.
Năm 2003-2004:
Việc nghiên cứu E-Learning được quan tâm hơn. Các hội nghị, hội thảo về
công nghệ thông tin và giáo dục đều có đề cập nhiều đến vấn đề E-Learning và khả
năng áp dụng vào môi trường đào tạo ở Việt Nam như: Hội thảo khoa học quốc gia
lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển - ứng dụng CNTT và truyền thông ICT/rda
tháng 2/2003, Hội thảo khoa học quốc gia lần II về nghiên cứu phát triển và ứng
dụng CNTT và truyền thông ICT/rda tháng 9/2004.
530
Năm 2005-2006:
Những hội thảo có quy mô được tổ chức. Hội thảo “Nghiên cứu và triển khai
E-Learning” do Viện Công nghệ Thông tin (ĐHQG Hà Nội) và Khoa Công nghệ
Thông tin (ĐH Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005 là hội thảo
khoa học về E-Learning đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, mang lại những thông
tin mới và bổ ích cho nền giáo dục online.
Những đơn vị tiên phong ứng dụng giáo dục trực tuyến trong dạy học là Đại
học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Xây dựng...
Giai đoạn này hệ thống giáo dục học dựa trên các đối tượng, chủ đề.
Năm 2007-2008:
Bắt đầu ra đời các doanh nghiệp kinh doanh về giáo dục trực tuyến.
eGame - Công ty cổ phần trò chơi giáo dục trực tuyến
Hocmai - Cổng học tập K12.
Đây là giai đoạn tập trung vào xây dựng các kho dữ liệu học tập, đẩy mạnh các
công cụ tìm kiếm nội dung học tập.
Năm 2009-2010:
Hạ tầng CNTT trong ngành giáo dục được đầu tư mạnh mẽ với việc hoàn thành
“Mạng giáo dục Edunet” năm 2010 (chương trình hợp tác giữa Bộ GDĐT với Tập
đoàn Viễn thông quân đội Vietel), kết nối Internet băng thông rộng đến tất cả các cơ
sở giáo dục từ mầm non đến đại học. Nhiều trường đại học, cao đẳng đã trang bị hạ
tầng CNTT, thiết bị dạy học hiện đại và từng bước triển khai E-Learning.
Một số khóa học trực tuyến, dạy học qua mạng được mở ra. Thị trường E-
Learning sôi động hơn với sự ra đời của hoc360.vn
Bước sang giai đoạn lấy cá nhân người học làm chủ đạo, các bài giảng được
ghi hình, xử lý hậu kỳ một cách bài bản.
Năm 2011-2012;
Tập trung mạnh vào phân tích hành vi học tập, xây dựng các biểu đồ học tập.
Ngoài ra tinh thần game và nhiều ứng dụng game cho mảng giáo dục.
Đây cũng là thời gian nhiều ngách của giáo dục trực tuyến được triển khai.
Năm 2013-2014:
Giai đoạn nội dung được hiển thị đa phương tiện trên nhiều thiết bị khác nhau
(máy tính cá nhân, laptop, máy tính bảng, điện thoại thông minh).
Nhiều ứng dụng học tập cho điện thoại được ra đời.
531
Chương trình đào tạo cử nhân trực tuyến TOPICA-UNI phát triển mạnh và gây
được sự chú ý lớn của thị trường.
Năm 2015 đến nay:
Tăng tốc về số lượng về các đơn vị giáo dục trực tuyến, tại Việt Nam đã có hơn
100 đơn vị làm giáo dục trực tuyến.
Các đơn vị hoạt động về giáo dục trực tuyến bắt đầu phân cấp mạnh và chuyên
môn hóa rõ ràng hơn. Một số đơn vị quan tâm đến Big Data trong giáo dục trực
tuyến cũng như xây dựng hệ sinh thái cho mảng giáo dục online tại Việt Nam.
Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai E-
Learning, một số trường bước đầu đã triển khai các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho
các kết quả khả quan: Đại học Công nghệ - ĐHQG Hà Nội, Viện CNTT - ĐHQG Hà
Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Học viện Bưu
chính Viễn thông Cục Công nghệ thông tin của Bộ GDĐT đã triển khai cổng E-
Learning nhằm cung cấp một cách có hệ thống các thông tin E-Learning trên thế giới
và ở Việt Nam. Bên cạnh đó, một số công ty phần mềm ở Việt Nam đã tung ra thị
trường một số sản phẩm hỗ trợ đào tạo. Tuy các sản phẩm này chưa phải là sản phẩm
lớn, được đóng gói hoàn chỉnh nhưng đã bước đầu góp phần thúc đẩy sự phát triển E-
Learning ở Việt Nam.
c. Một số cơ sở đào tạo E-Learning lớn ở Việt Nam
TOPICA: Tiền thân từ dự án Topic64 do Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm và
Chủ tịch Microsoft Bill Gates khởi động, Tổ hợp Công nghệ Giáo dục TOPICA là đơn
vị đào tạo trực tuyến hàng đầu Đông Nam Á. Chương trình đào tạo cử nhân trực tuyến
(TOPICA UNI) đang có hơn 1.000 giảng viên doanh nhân tham gia giảng dạy E-
Learning, cung cấp hạ tầng công nghệ và dịch vụ cho 10 trường Đại học ở Việt Nam
(trong đó có Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Viện Đại học Mở Hà Nội, Đại học Thái
Nguyên, Đại học Duy Tân, Đại học Trà Vinh) và đã đào tạo được hơn 6.300 sinh
viên thành đạt. Đây cũng là đơn vị đầu tiên của Việt Nam xuất khẩu công nghệ E-
Learning ra nước ngoài cho các đối tác như: Đại học AMA; Đại học Quốc gia Palawan;
Đại học Don Mariano Marcos Memorial State tại Philippines và Đại học Franklin, Hoa
Kỳ. Cho đến nay, đây cũng là đơn vị duy nhất ở Đông Nam Á cung cấp công nghệ và
dịch vụ đồng bộ cho chương trình Cử nhân trực tuyến của các trường đại học [9].