Đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội hiện nay

Tóm tắt Trong xu thế đào tạo đa ngành, đa nghề của các trường đại học ở Việt Nam hiện nay, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đang phải nghiên cứu đến tính hiệu quả đào tạo của các ngành, chuyên ngành hiện đang đào tạo tại Trường. Qua 60 năm đào tạo, bên cạnh những ngành học truyền thống đã làm nên thương hiệu của Trường, còn có những ngành học mới ra đời, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình đã triển khai thực hiện được 5 năm tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Cho đến nay, Đại học Văn hóa Hà Nội vẫn là trường đại học duy nhất ở Việt Nam đào tạo ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình. Qua thực tế đào tạo, chúng ta cần nhìn nhận thấu đáo các vấn đề xung quanh việc đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình và cần có hướng đi mới cho ngành học, đảm bảo vừa đáp ứng nhu cầu của xã hội vừa góp phần tạo dựng thương hiệu cho Nhà trường, phát triển vững mạnh trong tương lai.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
47Số 27 - Tháng 3 - 2019 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN 1. Bối cảnh ra đời ngành Gia đình học Ở Việt Nam hiện nay, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội là đơn vị duy nhất đào tạo ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình. Trước khi nói về hướng đào tạo này liệu có đúng hướng và trong tương lai việc đào tạo nguồn lực làm công tác gia đình có nên thay đổi không, cần nhìn nhận lại bối cảnh ra đời ngành Gia đình học tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội 5 năm về trước. Trước năm 2013, ở một số nước trên thế giới, nội dung đào tạo về gia đình hay con người, phát triển con người đã được đưa vào khung chương trình đào tạo của các trường đại học với nhiều nội dung phong phú. Ở Mỹ, Trường Đại học Towson (10) có Khoa Gia đình học và Phát triển cộng đồng. Trường đã đào tạo hai ngành chính là ngành Khoa học về gia đình, ngành Dịch vụ con người và gia đình, và một ngành phụ là Gia đình học (3, tr.109). Nếu như ngành Khoa học về gia đình đề cập chủ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC LÀM CÔNG TÁC GIA ĐÌNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI HIỆN NAY TRẦN THỊ THU NHUNG Tóm tắt Trong xu thế đào tạo đa ngành, đa nghề của các trường đại học ở Việt Nam hiện nay, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đang phải nghiên cứu đến tính hiệu quả đào tạo của các ngành, chuyên ngành hiện đang đào tạo tại Trường. Qua 60 năm đào tạo, bên cạnh những ngành học truyền thống đã làm nên thương hiệu của Trường, còn có những ngành học mới ra đời, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình đã triển khai thực hiện được 5 năm tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Cho đến nay, Đại học Văn hóa Hà Nội vẫn là trường đại học duy nhất ở Việt Nam đào tạo ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình. Qua thực tế đào tạo, chúng ta cần nhìn nhận thấu đáo các vấn đề xung quanh việc đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình và cần có hướng đi mới cho ngành học, đảm bảo vừa đáp ứng nhu cầu của xã hội vừa góp phần tạo dựng thương hiệu cho Nhà trường, phát triển vững mạnh trong tương lai. Từ khóa: Đại học Văn hóa Hà Nội, đào tạo, gia đình học, công tác gia đình, nguồn nhân lực Abstract In the current trend of multi-disciplinary training in universities in Vietnam, Hanoi University of Culture is considering the training effectiveness of majors and faculties which are trained at the University. After 60 years of educating, besides traditional majors that have made up the brand name of the University, there are also new established majors to meet the needs of society. Educating human resources for family work has been implemented for 5 years at Hanoi University of Culture. So far, Hanoi University of Culture is still the only university in Vietnam which offer State management of family and family studies majors. Through the reality of training, we need to look closely at the issues related to the training of human resources in the filed of family work and need to make a new direction for the major to ensure both meet the needs of society and contribute to create the brand name of the university and sustainable development for the future. Keywords: Hanoi University of Culture, training, family studies, family work, human resources 48 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 yếu đến vấn đề nghiên cứu mang tính lý luận về gia đình thì ngành Dịch vụ con người và gia đình cung cấp các kiến thức cơ bản cho người học về các dịch vụ liên quan đến đời sống con người. Ở Australia, Trường Đại học Griffith (8) cũng đã đào tạo bậc cử nhân ngành Gia đình học và trẻ em. Sinh viên học ngành này được tiếp cận các học phần kiến thức về luật pháp và chính sách liên quan đến vấn đề gia đình, tư vấn cá nhân và gia đình, bạo lực gia đình và các kiến thức liên quan đến trẻ em như cam kết với trẻ em, gia đình và trẻ em. Trường Đại học Quốc gia Ireland Galway (Nui Galway) (9) cũng đào tạo ngành Gia đình học và cộng đồng. Kiểu đào tạo từ xa ở trường này cung cấp các kiến thức và kỹ năng cho những người hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ gia đình và các hoạt động cộng đồng Chương trình đào tạo của các trường trên được xã hội đánh giá là rất cần thiết cho xã hội. Tuy nhiên, ở Việt Nam trong thời điểm đó vẫn chưa có bất kỳ một cơ sở đào tạo nào đào tạo ngành và chuyên ngành về nguồn lực làm việc trong lĩnh vực gia đình. Mới chỉ có một số môn học hoặc một phần nội dung của các môn học liên quan đến vấn đề gia đình trong các trường đại học như: môn Xã hội học gia đình, môn Xây dựng nếp sống văn hóa (trong đó có nội dung về xây dựng gia đình văn hóa), và trong chương trình học của ngành Quản lý văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội có môn học Văn hóa gia đình (là kiến thức bắt buộc có thời lượng 45 tiết). Trong khi đó, chúng ta thấy rõ gia đình vốn là một thiết chế xã hội đặc thù, có vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy văn hóa của dân tộc. Nếu như văn hóa gia đình được gìn giữ theo hướng tích cực thì văn hóa dân tộc sẽ ít nguy cơ mai một. Hơn thế, trong lúc này, gia đình Việt Nam có nhiều thay đổi trước sự tác động của nền kinh tế thị trường, của quá trình đô thị hóa, của xu thế hội nhập; bên cạnh những thay đổi tích cực, gia đình Việt Nam xuất hiện rất nhiều những bất cập cần thiết phải có sự định hướng, quản lý. Đó là hàng loạt hiện tượng bạo lực gia đình đang xảy ra, đạo đức gia đình nói riêng và đạo đức của xã hội xuất hiện nhiều vấn đề, người giúp việc đánh trẻ nhỏ, bà giết cháu, bố tra tấn con, thầy giáo xâm hại học sinh tiểu học Câu hỏi đặt ra là ai là người chịu trách nhiệm trước những hiện tượng này, nhìn từ góc độ quản lý xã hội. Ở Việt Nam có rất nhiều bộ luật liên quan đến vấn đề gia đình, đã tạo nên hành lang pháp lý trong việc đảm bảo đời sống gia đình góp phần phát triển xã hội. Năm 2002, Quốc hội Việt Nam có Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em - cơ quan chức năng tham mưu quản lý nhà nước về gia đình. Đến năm 2007, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em giải thể, công tác gia đình được chuyển giao về Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Kể từ đó đến nay, công tác gia đình được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quan tâm trực tiếp, định hướng và đề xuất các chương trình, hành động liên quan đến lĩnh vực gia đình. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã xây dựng chương trình đào tạo ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình. Năm 2013, khóa sinh viên đầu tiên về chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình (thuộc mã ngành Quản lý văn hóa) được tuyển sinh. Hai năm sau, trường tuyển sinh ngành Gia đình học. Đến nay, chương trình học của ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình đang được nhà trường tiếp tục thực hiện. Chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình có mục tiêu đào tạo nhằm trang bị cho sinh viên kiến thức cơ bản về quản lý văn hóa để tổ chức, điều hành các hoạt động nghiệp vụ quản lý nhà nước về gia đình, góp phần vào việc hỗ trợ sự phát triển ổn định của gia đình Việt Nam, đáp ứng tốt nhu cầu và nhiệm vụ 49Số 27 - Tháng 3 - 2019 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN của ngành cũng như của xã hội. Chương trình đào tạo chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình được xây dựng trên cơ sở cấu trúc chương trình đào tạo chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bao gồm khối kiến thức đại cương và khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp. Trong đó, khối kiến thức cơ sở của ngành và khối kiến thức chung của ngành bao gồm các môn học ngành Quản lý văn hóa. Phần kiến thức chuyên ngành tập trung vào cung cấp kiến thức cho sinh viên về Pháp luật về gia đình; Xây dựng chính sách gia đình; Truyền thông trong công tác gia đình; Bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình; Xây dựng gia đình văn hóa; Quản lý dịch vụ hỗ trợ gia đình; Xây dựng kế hoạch/dự án quản lý nhà nước về gia đình. Ngoài ra còn các học phần tự chọn cung cấp kiến thức cho sinh viên về Kỹ năng hòa giải và thuyết phục; Công tác người cao tuổi; Chăm sóc sức khỏe gia đình Ngành Gia đình học có mục tiêu đào tạo nghiên cứu, dự báo, xây dựng các chính sách về gia đình và các hoạt động xã hội có liên quan đến công tác gia đình, tổ chức thao tác hoạt động nghiệp vụ văn hóa trong lĩnh vực gia đình, thực hiện các hoạt động tư vấn, cung cấp các dịch vụ gia đình. Kiến thức cơ sở của ngành trang bị cho sinh viên các kiến thức cơ bản, giúp cho sinh viên nắm bắt các kiến thức sâu về ngành như Nhân học đại cương; Gia đình học đại cương; Giáo dục học đại cương; Kinh tế học đại cương; Đại cương công tác xã hội Phần kiến thức ngành bao gồm Tâm lý học gia đình; Xã hội học gia đình; Kinh tế học gia đình; Văn hóa học gia đình; Quản lý nhà nước về gia đình; Lịch sử hôn nhân và gia đình; Văn hóa gia đình; Xây dựng gia đình văn hóa; Tư vấn luật pháp; Vận động và hòa giải; Phát triển kinh tế gia đình; Tư vấn tiêu dùng; Tư vấn tình yêu và hôn nhân Cho đến nay, chương trình đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình của Trường Đại học Văn học Văn hóa Hà Nội đã bước qua năm thứ sáu, với hai khóa sinh viên đã tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình. 2. Những vấn đề đặt ra trong đào tạo và nhu cầu xã hội về nguồn nhân lực làm công tác gia đình 2.1. Nhìn lại quá trình đào tạo ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình, có thể nhận thấy một số vấn đề sau: Về nguồn tuyển sinh: Nguồn tuyển sinh hàng năm cho chuyên ngành đào tạo Quản lý nhà nước về gia đình và ngành Gia đình học thường là học sinh mới tốt nghiệp bậc học trung học phổ thông. Đa số các học sinh trúng tuyển ngành học đều là nguyện vọng 2. Lý do chủ yếu vì các em chưa nắm bắt hết nội dung chương trình đào tạo, chưa hiểu hết về cơ hội nghề nghiệp cũng như đầu ra của chương trình đào tạo. Qua khảo sát 30 sinh viên chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình năm thứ nhất (mới vào trường) trong một lớp: có tới 60% sinh viên chưa nắm rõ về nội dung chương trình đào tạo, 40% sinh viên biết được cơ hội việc làm từ học chuyên ngành này. Hầu hết sinh viên đều có tâm lý vào học đã rồi tìm hiểu về ngành học sau. Số lượng thí sinh trúng tuyển học ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình hàng năm dao động từ 40 - 60 sinh viên/khóa học. Như vậy số lượng tuyển sinh cho ngành học liên quan đến công tác gia đình ở Trường Đại học Văn hóa Hà Nội hiện nay không nhiều. Về đầu ra của sinh viên: Qua khảo sát một lớp chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình (30 sinh viên), có khoảng 20% xin được việc làm từ khối cơ quan nhà nước, 15% xin được việc đúng chuyên ngành từ các tổ chức, đơn vị ngoài nhà nước sau 1 năm ra trường. Qua đây chúng ta không nên vội vàng kết luận về tỷ lệ xin được việc làm đúng chuyên ngành ít. Bởi lẽ do bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay mức lương của công chức nhà nước còn thấp, chưa thu hút được nhân lực làm trong các đơn 50 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 vị này. Khi hỏi các sinh viên năm thứ tư chuyên ngành đào tạo về gia đình, nhiều sinh viên lo sợ mức thu nhập của các đơn vị nhà nước nói chung hiện nay không đáp ứng nhu cầu đời sống vì vậy họ cũng chưa thật sự tha thiết muốn được làm việc trong khối cơ quan này. Điều sinh viên cần nhất khi ra trường là mức thu nhập hàng tháng, và vì vậy, những công việc nào có thể mang lại cho họ nguồn thu nhập tốt hơn, họ sẽ làm. Đây là xu hướng chung của sinh viên khi ra trường chứ không phải chỉ do chuyên ngành đào tạo hẹp về đầu ra. Vấn đề đặt ra cho Trường Đại học Văn hóa Hà Nội hiện nay khi đào tạo một ngành học mới là nguồn tuyển còn khiêm tốn, bối cảnh tuyển sinh có nhiều khó khăn, trong khi đó yêu cầu thực hiện tự chủ đại học trong tương lai là những vấn đề rất cần phải bàn luận. 2.2. Ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình hiện nay trong thực tế vẫn đang được xã hội quan tâm. Điều đó được thể hiện rõ trong một số khía cạnh sau: - Ở Việt Nam hiện nay vẫn đang có nhu cầu rất lớn nguồn nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về gia đình. Theo báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về đào tạo ngành Gia đình học, “hầu hết các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch địa phương đều gặp khó khăn khi xây dựng phòng chức năng quản lý công tác gia đình. Hầu hết cán bộ văn hóa cơ sở đều chưa được trang bị kiến thức nghiệp vụ về công tác gia đình ngoài nhiệm vụ vận động, hướng dẫn các gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa” (1). Do chưa được trang bị kiến thức nghiệp vụ nên cán bộ công tác gia đình ở cơ sở chỉ đơn thuần thực thi luật trong lĩnh vực gia đình, trong khi công tác gia đình hiện nay đòi hỏi những kỹ năng nghiệp vụ khác cần phải đào tạo chuyên môn sâu. Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 25/01/2014 phê duyệt Đề án kiện toàn, đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện công tác gia đình các cấp đến năm 2020. Trong Điều 1 của Quyết định có nội dung xây dựng mạng lưới cộng tác viên gia đình ở cơ sở (4). Tuy nhiên, những người làm công tác gia đình hiện nay đa số đều kiêm nhiệm, là cộng tác viên nhưng chưa được trang bị kiến thức sâu về chuyên môn. - Nhân lực làm công tác tư vấn, cung cấp dịch vụ gia đình, làm việc tại các trung tâm, công ty, đơn vị ngoài công lập cũng đang còn thiếu. Hiện nay, do nhu cầu của xã hội về nâng cao đời sống gia đình ngày càng tăng, nhu cầu về các dịch vụ như chăm sóc sức khỏe gia đình, tư vấn về tình yêu hôn nhân, dịch vụ làm đẹp, dịch vụ tổ chức các sự kiện gia đình ngày càng được xã hội quan tâm. Vì vậy rất cần nguồn nhân lực được đào tạo để làm tốt trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ này. - Nguồn nhân lực làm công tác giảng dạy, các chuyên gia trong lĩnh vực gia đình hiện nay vẫn còn rất thiếu. Thực tế, tại các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu về gia đình như các viện nghiên cứu, trường đại học, hầu hết cán bộ làm trong lĩnh vực gia đình thường được đào tạo từ xã hội học, nhân học, văn hóa học. Trong khi đó, xã hội đang rất cần những người thực sự được đào tạo từ gia đình học, có chuyên môn sâu về lĩnh vực này. Hàng năm, hầu hết các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đều tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác gia đình cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình cấp huyện, thị xã, thành phố, cấp xã, phường, trị trấn. Ở nhiều tỉnh thành, ngày càng xuất hiện nhiều mô hình, trung tâm tư vấn, câu lạc bộ hoạt động trong lĩnh vực gia đình. Tính riêng ở thành phố Hà Nội hiện nay, có tới 200 câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình và hệ thống câu lạc bộ này được chú ý phát triển và duy trì đều đặn với nội dung phổ biến các kiến thức cần thiết điều tiết mối quan hệ trong gia đình, giữa gia đình và cộng đồng, phòng chống bạo lực gia đình, giảm tệ nạn xã hộiTrách nhiệm 51Số 27 - Tháng 3 - 2019 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN của những người truyền thụ kiến thức cho các cộng tác viên, người làm công tác gia đình ở cơ sở, định hướng, nói chuyện chuyên đề trong các đợt sinh hoạt, câu lạc bộ liên quan đến lĩnh vực gia đình chính là thuộc về đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên, chuyên gia về công tác gia đình. Quyết định số 200/QĐ-TTg cũng đã nêu rõ các hoạt động cụ thể cần triển khai thực hiện là: “Xây dựng đội ngũ giảng viên công tác gia đình trong các cơ sở đào tạo thuộc khối khoa học xã hội; xây dựng đội ngũ giảng viên nguồn về công tác gia đình các cấp” (4). Như vậy, có thể khẳng định, hướng đào tạo ngành Gia đình học và chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình hiện nay ở Trường Đại học Văn hóa Hà Nội là hướng đào tạo đúng đắn, cần phải thực hiện. Vấn đề hiện nay là Nhà trường cần giải quyết tốt việc đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình, đáp ứng nhu cầu đang cần của xã hội và có hướng đi mới về đào tạo trong lĩnh vực này bắt kịp với xu thế không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. 3. Bàn về hướng đi mới trong đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình Xuất phát từ tình hình đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình, nhu cầu của xã hội và xu thế của thời đại, chúng tôi thiết nghĩ Trường Đại học Văn hóa Hà Nội nên xem xét đào tạo nguồn nhân lực làm công tác gia đình theo hai hướng: Một là, tiếp tục đào tạo chuyên ngành Quản lý nhà nước về gia đình, vì đây là nhân lực còn thiếu rất nhiều trong các đơn vị quản lý văn hóa nói chung và quản lý nhà nước về gia đình nói riêng. Thực tế cho thấy nhiều đơn vị nhà nước có chức năng nghiên cứu và giảng dạy về gia đình vẫn có nhu cầu về nguồn nhân lực này, hơn thế, ngày càng xuất hiện nhiều tổ chức phi chính phủ nghiên cứu về các vấn đề cộng đồng nói chung và nâng cao năng lực cho người yếu thế như phụ nữ, trẻ em, nạn nhân bạo lực gia đình, người già Đây chính là mảnh đất dồi dào sẵn sàng đón nhận sản phẩm đào tạo của Nhà trường. Hai là, để đảm bảo bắt kịp xu thế phát triển của thị trường dịch vụ đời sống con người nói chung và các dịch vụ liên quan đến gia đình nói riêng, đảm bảo đời sống kinh tế của “nghề” cho các sinh viên khi tốt nghiệp, từ đó thu hút nguồn tuyển sinh, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cần nghiên cứu mở chuyên ngành đào tạo về dịch vụ gia đình. Việc mở chuyên ngành Dịch vụ gia đình xuất phát từ nhu cầu của xã hội không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước trên thế giới. Xã hội ngày càng phát triển, vai trò của các dịch vụ chăm sóc cộng đồng nói chung và dịch vụ gia đình nói riêng ngày càng quan trọng. Nhờ các dịch vụ này mà chất lượng cuộc sống của người dân mỗi quốc gia được nâng lên. Tính riêng tại Úc hiện nay, nhu cầu việc làm trong lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi trong vài năm gần đây tăng trưởng 102% so với mức trung bình 13% của các ngành khác. Hay như theo số liệu điều tra dân số của Úc cho thấy: tổng dân số Úc hiện nay chỉ tăng 9% so với năm 2011, trong khi đó, số lao động làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sắc đẹp và huấn luyện viên thể hình đã tăng 25%. Nói như vậy để thấy nhu cầu của xã hội về các dịch vụ gia đình ngày càng tăng lên. Ở Việt Nam, cùng với sự tăng trưởng của kinh tế, nhu cầu về làm đẹp, chăm sóc sức khoẻ gia đình, nhu cầu có sự an toàn, an ninh, có môi trường cảnh quan sống thẩm mỹ của từng gia đình ngày càng quan trọng, nhất là đối với các gia đình ở đô thị. Vì vậy, việc đào tạo ra nguồn nhân lực để quản trị, tổ chức, đào tạo, thực hiện các hoạt động liên quan đến dịch vụ gia đình như dịch vụ chăm sóc sức khoẻ gia đình, dịch vụ tư vấn, thiết kế cảnh quan môi trường sống của gia đình, dịch vụ đảm bảo an toàn, an ninh các thành viên trong gia đình là rất cần thiết. Người học chuyên ngành Dịch vụ gia đình sẽ có chuẩn đầu ra rõ ràng về kiến thức chuyên môn: 52 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Số 27 - Tháng 3 - 2019 Kiến thức về tư vấn giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống gia đình; kiến thức về y tế, tâm lý học và sinh lý học lứa tuổi, cần thiết cho công việc bảo mẫu và gia sư; kiến thức về dinh dưỡng và y tế thường thức trong việc chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình và xử lý các tình huống cấp cứu; những yêu cầu, nguyên tắc và quy trình làm đẹp và chăm sóc sắc đẹp trong gia đình; những nguyên tắc và nhiệm vụ chủ yếu trong việc chăm sóc các thành viên đặc biệt trong gia đình: Trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người già và người ốm trong gia đình; kiến thức về tài chính và tiêu dùng để tư vấn xây dựng kế hoạch quản lý tài chính và tiêu dùng cho gia đình đảm bảo hợp lý, an toàn và tin cậy; những yêu cầu, nguyên tắc và nội dung công việc lập kế hoạch và tổ chức các sự kiện tại gia đình; những yêu cầu, nguyên tắc và kỹ thuật chăm sóc cây trồng và vật nuôi trong gia đì