Tóm tắt: Đào tạo theo học chế tín chỉ là một xu thế tất yếu của các trường đại
học và cao đẳng ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, quá trình thực hiện hình thức đào
tạo này còn gặp nhiều khó khăn rất lớn, cả về chương trình đào tạo, cách thức quản
lý, phương pháp dạy và học, cả về cơ sở vật chất. Không nhận thức đầy đủ về đào tạo
theo học chế tín chỉ, không đề ra các giải pháp khắc phục kịp thời những bất cập này,
sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân cả hiện
tại lẫn trong tương lai lâu dài.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo theo học chế tín chỉ: Khó khăn và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
103Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
1. Thực hiện đào tạo theo học chế
tín chỉ là xu thế tất yếu
Với thế giới, phương thức đào tạo tín
chỉ ra đời từ năm 1872 tại Đại học Harvard
(Hoa Kỳ). Sau đó, hệ thống đào tạo này
đã lan sang nhiều nước trên thế giới, lúc
đầu là ở Bắc Mỹ, Châu Âu và các châu
lục khác. Tại Chấu Á đào tạo theo tín chỉ
đã được áp dụng ở Nhật Bản, Philippines,
Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia,
Indonesia, Ấn Độ và Trung Quốc,
Đối với Việt Nam, ngày 15 tháng 8 năm
2007, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ra Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT
ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ
(gọi tắt là Quy chế 43), có hiệu lực kể từ
ngày 31 tháng 8 năm 2007. Tiếp đó, ngày
27 tháng 12 năm 2012, Bộ có Thông tư số
57/2012/TT-BGDĐT (gọi tắt là Quy chế
57) sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
chế 43, có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 02
năm 2013. Sau đó, ngày 15 tháng 5 năm
2014, Bộ lại ban hành văn bản hợp nhất
số 17/VBHN-BGDĐT về Quy chế đào tạo
đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ
thống tín chỉ. Như vậy, Bộ đã quyết liệt
chỉ đạo, yêu cầu các trường đại học, cao
đẳng cần phải thực hiện quy chế đào tạo
theo hệ thống tín chỉ.
Thưc tế ở Việt Nam, hệ thống tín chỉ
đã được áp dụng vào việc đào tạo ở bậc
đại học từ trước 1975. Đó là Viện Đại học
Cần Thơ đã từng áp dụng hệ thống tín chỉ
ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ:
KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP
TS. Tống Duy Tình *
Tóm tắt: Đào tạo theo học chế tín chỉ là một xu thế tất yếu của các trường đại
học và cao đẳng ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, quá trình thực hiện hình thức đào
tạo này còn gặp nhiều khó khăn rất lớn, cả về chương trình đào tạo, cách thức quản
lý, phương pháp dạy và học, cả về cơ sở vật chất. Không nhận thức đầy đủ về đào tạo
theo học chế tín chỉ, không đề ra các giải pháp khắc phục kịp thời những bất cập này,
sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân cả hiện
tại lẫn trong tương lai lâu dài.
Từ khóa: Tín chỉ, học chế tín chỉ, xu thế tất yếu, khó khăn, giải pháp.
Abstract: Credit-based training is an inevitable trend of Vietnamese universities
and colleges at present time, in the implementation of this training mode, however,
there have arisen a lot of great difficulties in both training programmes, management,
teaching and learning methods and facilities. If the credit-based training is not fully
aware of and if timely solutions to these inadequacies are not proposed, the training
quality of the national education system at present and in the long-term future will be
negatively influenced.
Keywords: credit, credit-based training, inevitable trend, difficulty, solutions
* Phó Chủ nhiệm khoa Quản lý Nhà nước –
Trường ĐH KD&CN Hà Nội
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
104Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
trong các Đại học Văn khoa, Đại học Luật
khoa và Đại học Khoa học. Quyết định số
43/2007/QĐ-BGDĐT ban hành đền nay
đã gần hai thập kỷ thực hiện đào tạo theo
hệ thống tín chỉ, nhưng vẫn còn nhiều
trường đại học, cao đẳng ở giai đoạn thí
điểm; hầu hết các trường chuyển từ đào
tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống
tín chỉ vẫn gặp nhiều khó khăn, bất cập
Nhưng dù sao thì các trường cũng đã từng
bước tìm tòi, nghiên cứu các giải pháp để
thực hiện và đang dần khẳng định tính ưu
việt của đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Trường Đại học Kinh doanh và Công
nghệ Hà Nội đã xác định đào tạo theo học
chế tín chỉ là xu thế tất yếu, nên đã triển
khai thực hiện. Song, cũng như các trường
khác bước đầu còn gặp nhiều khó khăn,
cả với người học, người dạy, cả với cách
quản lý của nhà trường. Do vậy, Ban Giám
hiệu đã yêu cầu các đơn vị chủ động học
hỏi kinh nghiệm, tổ chức hội thảo khoa
học nhằm tìm các giải pháp thích hợp
nhất, phù hợp nhất với điều kiện chung
của nhà trường và điều kiện đặc thù của
mỗi đơn vị, nhanh chóng hoàn thiện quy
trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ như Bộ
đã quy định và cũng là thực hiện mong
muốn của GS. Hiệu trưởng nhà trường
trong nhiều năm nay.
2. Nhận thức về tín chỉ, học chế
tín chỉ
Hệ thống tín chỉ xuất hiện lần đầu tiên
vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở Mỹ
với hai xu hướng phát triển: (i) Xu hướng
hệ thống môn học tự chọn và (ii) Xu
hướng phân nhánh, mở rộng những khả
năng vào trường đại học, cao đẳng. Đào
tạo hay dạy học diễn ra theo một quá trình
{Bối cảnh (Context) - Đầu vào (Input) -
Quá trình (Process) - Đầu ra (Outcome)}
là một trong các mô hình điển hình về quá
trình đào tạo của trường đại học.
Tín chỉ (TC) là đơn vị dùng để đo
lường kết quả học tập và tiến bộ của sinh
viên. Mặc dù, hiện nay có nhiều cách
hiểu khác nhau về tín chỉ, nhưng khái
quát, tín chỉ được sử dụng để tính khối
lượng học tập của sinh viên. Một tín chỉ
được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết;
30-45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo
luận; 45-90 giờ thực tập tại cơ sở; 45-60
giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án,
khóa luận tốt nghiệp.
Đặc điểm cơ bản của đào tạo theo hệ
thống tín chỉ là mềm dẻo, chủ động trong
tiến độ, đa dạng trong cách dạy và học, liên
thông trong tích lũy nội dung kiến thức,
thuận lợi trong điều chỉnh, lựa chọn chương
trình theo các nhu cầu học tập cá nhân,...
Vì vậy, thực hiện chuyển đổi chương trình
nhằm mục đích đáp ứng chuẩn đầu ra, bởi
nó đáp ứng về thiết kế chương trình đào tạo
và xây dựng đề cương chi tiết học phần. Nó
thể hiện da dạng hóa hình thức tổ chức dạy
học: phần dạy học trên lớp lý thuyết; Phần
sinh viên tự học, tự nghiên cứu (ngoài giờ
lên lớp). Giờ tự học, tự nghiên cứu; Dạy
học bằng chính những hoạt động học tập
của người học; Dạy học cá thể hoá trong
hoạt động hợp tác của người dạy - người
học và giữa những người học với nhau;
Dạy học thông qua việc phát huy khả năng
tự học, tự nghiên cứu của người học; Dạy
học thông qua việc đánh giá và tự đánh giá
của người dạy và người học. Kết quả cuối
cùng của sự chuyển đổi dẫn đến những sự
thay đổi căn bản trong nhà trường hiện nay
về thiết kế, tổ chức và quản lý quá trình đào
tạo. Đáp ứng cho cả ba chủ thể: người học,
người dạy và nhà quản lý nhằm hướng đến
cùng một đích thực thi quá trình dạy và
học một cách hiệu quả.
Học chế tín chỉ (HCTC) là hình thức
đào tạo đào tạo theo tín chỉ (học phần).
HCTC là cá thể hóa việc học tập trong
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
105Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
một nền giáo dục bậc cao cho số đông và
triết lý làm nền tảng cho học chế tín chỉ là
“giáo dục hướng về người học” và “giáo
dục đại học đại chúng”. Các hình thức tổ
chức giờ tín chỉ bao gồm: dạy - học trên
lớp; dạy - học trong phòng thí nghiệm,
studio, hiện trường,...; làm thí nghiệm,
thực hành, thực tập, điền dã (dạy - học
thực hành, thực tập); dạy - học ngoài lớp,
ngoài phòng thí nghiệm,... Đào tạo theo
HCTC là thực hiện chuyển quyền quyết
định mục đích đào tạo cũng như lựa chọn
các môn học và cả kế hoạch học tập từ
nhà trường cho sinh viên trong điều kiện
quy định công khai số lượng và cấu trúc
các môn học. Những đặc tính quan trọng
nhất của đào tạo theo HCTC là: tính liên
thông; tính chủ động; tính khoa học; tính
thực tiễn, linh hoạt.
Tính ưu việt đào tạo theo tín chỉ. Đặc
điểm của đào tạo theo HCTC của trường
đại học, cao đẳng đó là áp dụng chương
trình đào tạo theo hướng tích lũy tín chỉ;
Lập kế hoạch và tổ chức đào tạo lấy sinh
viên làm trọng tâm; Tăng cường tính tự
học của sinh viên; Phát huy vai trò quan
trọng của đội ngũ cố vấn học tập; Kiểm tra
đánh giá theo quá trình học tập của sinh
viên, Đó là thể hiện tính linh hoạt, tính
chủ động sáng tạo của người học, tính tích
cực của phương pháp giảng dạy, tính liên
thông giữa các trường, các ngành đào tạo
có liên quan và tính sáng tạo trong kiểm
tra đánh giá học tập. Như vậy, ưu thế của
đào tạo theo tín chỉ được khẳng định:
- Kết quả học tập của người học được
tính theo quá trình tích luỹ từng học phần
mà không phải tính theo năm học, do vậy,
nếu hỏng một học phần nào đó không cản
trở quá trình học tiếp của sinh viên, mà
chỉ học lại các học phần không đạt yêu
cầu mà không phải “lưu ban” như trong
đào tạo theo niên chế. Vì vậy, đào tạo
theo đào tạo theo HCTC có chi phí thấp
và hiệu quả cao hơn;
- Đào tạo theo hệ thống tín chỉ tạo
điều kiện cho sinh viên năng động hơn,
khả năng thích ứng tốt hơn với những biến
đổi nhanh chóng của cuộc sống xã hội hiện
đại. Bởi vì người học được chủ động xây
dựng cho mình một kế hoạch học tập thích
hợp, có hiệu quả cao nhất cho bản thân, mà
không thụ động như học theo niên chế;
- Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là tạo cơ
hội cho người học khi cần chuyển trường
(cả trong nước cũng như ngoài nước).
Người học có thể học những môn chung
ở một số khoa, trường và họ có thể học
những môn học lựa chọn ở các khoa khác
nhau. Từ đó tác động đến cách tổ chức và
sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất
và phương tiện tốt nhất cho từng môn học
để thu hút người học tham gia. Nếu muốn
chuyển từ một ngành này sang một ngành
khác, họ chỉ cần tự thay đổi một số tín chỉ,
chứ không phải học lại từ đầu;
- Đây là cơ hội tốt cho người học giao
lưu, học hỏi lẫn nhau và mở rộng các mối
quan hệ xã hội, vì lớp học phần sẽ bao
gồm người học nhiều khoá học và nhiều
ngành học khác nhau. Các trường có thể
mở thêm ngành học mới một cách dễ
dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu
của thị trường lao động và tình hình lựa
chọn ngành nghề của người học. Đào tạo
theo hệ thống tín chỉ cho phép ghi nhận
cả những kiến thức và khả năng tích luỹ
được ngoài trường lớp để dẫn tới văn
bằng, khuyến khích người học từ nhiều
nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học
đại học một cách thuận lợi;
- Khác biệt lớn nhất so với hệ thống
đào tạo theo niên chế trước đây là, người
học được chủ động sắp xếp lịch học của
mình bằng cách đăng ký các môn học
theo một trật tự quy định.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
106Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
3. Những khó khăn khi triển khai
đào tạo theo học chế tín chỉ
Kinh nghiệm của các trường đại học,
cao đẳng ở Việt Nam đã triển khai đào tạo
theo học chế tín chỉ cho thấy khó khăn bao
trùm là nếu không cần thận sẽ dẫn đến dễ
cắt vụn kiến thức và khó tạo nên sự gắn
kết trong sinh viên và giảng viên với nhau,
sự bất cập với công tác điều hành quản lý
trong đào tạo theo tín chỉ,. Bởi vì:
- Công tác điều hành quản lý trong
đào tạo theo tín chỉ rất phức tạp, vì mỗi
người học có một kế hoạch học tập riêng,
nên việc tổ chức điều hành quản lý đào
tạo rất khó bù giờ, đổi lịch do mỗi sinh
viên. Việc đổi lịch sang học buổi khác, có
thể sinh viên này chấp nhận, nhưng sinh
viên khác lại không chấp nhận;
- Người học phải mất nhiều thời gian
để lập kế hoạch học tập, đăng ký học phần,
điều chỉnh kế hoạch và đăng ký bổ sung;
- Nhận thức và kỹ năng của người
học còn nhiều hạn chế, không quen làm
việc độc lập, tư duy dựa vào đội ngũ cố
vấn học tập, đội ngũ cán bộ lớp để nắm
bắt thông tin của nhà trường nên đôi
khi không nắm rõ chương trình đào tạo;
- Việc thường xuyên có mặt tại lớp
không phải là nghĩa vụ của sinh viên. Do
đó, việc điểm danh sinh viên đi học tự nó
trở nên vô nghĩa, việc tổ chức sinh hoạt
lớp, chi đoàn, chi hội gặp nhiều khó khăn
do khó gắn kết sinh viên;
- Việc tổ chức cho người học đi thực
tập, thực tế cũng gặp nhiều trở ngại, vì
các học phần người học đăng ký học rất
khác nhau, do vậy, nếu người học tham
gia đi thực tập, thực tế thì phải nghỉ học
các học phần khác;
- Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi
hỏi giảm thời gian lên lớp, tăng thời gian
tự học, tự nghiên cứu của người học. Tuy
nhiên, đặc điểm này cũng có thể dẫn đến
tình trạng sinh viên sử dụng không hợp lý
thời gian ngoài giờ và dẫn đến chất lượng
học tập kém;
- Đội ngũ giảng viên, đội ngũ cố vấn
học tập của nhiều trường hiện vẫn còn hạn
chế so với điều kiện cần và đủ để thực hiện
đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Bên cạnh đó,
cơ sở vật chất, điều kiện để đáp ứng cho
người học, người dạy, đội ngũ cố vấn học
tập vẫn còn nhiều hạn chế cơ bản.
Nhìn lại từ khi thực hiện QĐ số
43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8
năm 2007 của Bộ GDĐT đến nay, cho
thấy sự nhận thức chưa đầy đủ về nội hàm
của quá trình chuyển đổi sang đào tạo
theo tín chỉ; việc triển khai quá trình này
thiếu tính đồng bộ, hệ thống; lộ trình thực
hiện còn mang nặng tính chủ quan, duy
ý chí; sự chỉ đạo chưa quyết liệt của cấp
quản lý dẫn đến việc phối hợp chưa thực
sự ăn khớp giữa các chủ thể tham gia vào
quá trình chuyển đổi đào tạo Trong bối
cảnh đó, người học khó có thể chủ động
và tích cực (trong hoạt động, nhận thức
và lập kế hoạch học tập cá nhân) khi các
thành tố của nó còn chưa được sắp xếp
theo hệ thống (học cái gì, để làm gì, làm
thế nào để biết được đã học được những
gì có ý nghĩa cho bản thân,...).
Thực tế cho thấy trong thời gian qua
các trường đại học, cao đẳng Việt Nam
thực hiện việc chuyển đổi đào tạo từ niên
chế sang học chế tín chỉ, nhưng cũng chỉ
có rất ít trường tạo ra được những thay
đổi có tính chất cơ bản vốn rất cần cho
việc đổi mới hệ thống giáo dục đại học
của Việt Nam. Song, bên cạnh đó vẫn có
trường chỉ đang thực hiện những thay đổi
hình thức theo hệ thống mới vì vẫn không
hiểu rõ lịch sử và cơ chế hoạt động của
hệ thống đào tạo theo tín chỉ Hoa Kỳ. Do
vậy, khi áp dụng không mang lại hiệu quả
theo đúng nghĩa của nó, bởi vì chưa nhận
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
107Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
thức đúng và tuân thủ về quản lý đào tạo
theo HCTC. Đó cũng là những hạn chế,
bất cập gặp phải trong quá trình thực hiện
chuyển đổi sang mô hình đào tạo này.
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả đào tạo theo học chế tín chỉ
Phải xác định nhiệm vụ chính của
trường đại học không phải là cung cấp
kiến thức, mà là trang bị cho người học
phương pháp học tập, phương pháp tư
duy, phương pháp nghiên cứu. Đây chính
là sự thay đổi căn bản về cách dạy và cách
học mà đào tạo theo tín chỉ cần hướng
tới. Quản lý đào tạo theo HCTC là việc
quản lý và tổ chức phát triển và thực hiện
chương trình đào tạo, các hoạt động giảng
dạy, đào tạo, học tập và đánh giá nhất
quán với nhau, đảm bảo các đặc trưng
của HCTC, nhằm đảm bảo sinh viên tốt
nghiệp có năng lực đáp ứng được yêu cầu
công việc của bên sử dụng lao động và có
thể học tập suốt đời.
Giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, cần phải làm thay đổi suy
nghĩ của sinh viên, hướng cho sinh viên tới
phương pháp học mới và kết hợp với việc
thay đổi phương pháp dạy học tích cực.
Thứ hai, cần có đầy đủ giáo trình và
học liệu, khuyến khích giảng viên viết
giáo trình mới, tài liệu tham khảo phù hợp
với yêu cầu đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Thứ ba, tạo không gian học tập sao
cho sinh viên thích thú, thoải mái trong
việc tự nghiên cứu, tự học có hiệu quả,
phát triển hệ thống giao tiếp thông tin hai
chiều trong đào tạo.
Thứ tư, cần có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn đội ngũ giảng viên về
kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy tích
cực và quan tâm hơn nữa đến điều kiện vật
chất cũng như tinh thần của đội ngũ này.
Thứ năm, về công tác quản lý đào
tạo, cần tăng cường sự phối hợp giữa nhà
trường với các khoa chuyên môn và các
phòng chức năng. Cần có sự phân công,
phân cấp cụ thể cho các khoa chuyên môn
và các phòng chức năng để thực hiện quản
lý người học.
Giải pháp trước mắt:
- Cần có kế hoạch tuyên truyền phổ biến
nhằm nâng cao nhận thức của người dạy,
người học và nhà quản lý đào tạo hiểu rõ
bản chất của chương trình đào tạo, phương
pháp giảng dạy của giảng viên, phương
pháp học của sinh viên, phương pháp đánh
giá theo hệ thống tín chỉ. Cần tập huấn đội
ngũ cố vấn học tập về phương pháp tư vấn
cho sinh viên lựa chọn học phần và lập kế
hoạch học tập cho phù hợp;
- Cần tổ chức hướng dẫn sinh viên
cách thức lập kế hoạch học tập của mình,
lựa chọn học phần; xây dựng các kế hoạch
học tập mẫu để sinh viên tham khảo khi
lập kế hoạch học tập theo các phương án
học đúng tiến độ, học vượt tiến độ, học trễ
tiến độ, giúp sinh viên cân nhắc, lựa chọn;
- Đẩy mạnh các hội thảo, trao đổi
chuyên đề về đào tạo theo tín chỉ ở các
khoa chuyên ngành với các chủ đề:
Phương pháp dạy học theo tín chỉ; Đổi
mới phương pháp đánh giá kết quả học
tập của sinh viên; Cách thức xây dựng đề
cương bài giảng đào tạo theo tín chỉ,;
- Đổi mới hệ thống điều hành, quản lý
đào tạo theo hướng mềm dẻo, linh hoạt;
ứng dụng CNTT (phần mềm quản lý);
trong đó cần xây dựng đội ngũ nhân viên
quản lý đào tạo có trách nhiệm, sử dụng
thành thạo tin học và phần mềm quản lý
đào tạo;
- Tổ chức bồi dưỡng, trao đổi kinh
nghiệm đào tạo tín chỉ cho đội ngũ giảng
viên, đội ngũ cố vấn học tập, đội ngũ quản
lý đào tạo; tăng cường cơ sở vật chất, nhất
là tăng số lượng phòng học, thiết bị dạy
học, mạng máy tính, tài chính và nguồn
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
108Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
học liệu phục vụ cho công tác đào tạo
theo HCTC một cách kịp thời;
- Thực hiện xây dựng quy trình quản
lý đào tạo theo HCTC.
5. Kết luận
Điều 6 của Luật Giáo dục đã ghi rõ yêu
cầu về nội dung, phương pháp giáo dục:
“1. Nội dung giáo dục phải bảo đảm
tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại,
có hệ thống, mở và liên thông; coi trọng
giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức
và ý thức công dân; kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý
lứa tuổi của người học.
2. Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư
duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng
cho người học năng lực tự học và hợp tác,
khả năng thực hành, lòng say mê học tập
và ý chí vươn lên”.
Thực hiện đào tạo theo hệ thống tín
chỉ là tăng cường ý thức trách nhiệm của
người học đối với việc đào tạo, là thực
hiện dân chủ hoá trong giáo dục. Người
học được tham gia vào tất cả các khâu
trong tiến trình đào tạo của mình, từ việc
cơ cấu các môn học dựa trên hệ thống tự
chọn, đến việc quy hoạch lộ trình thực
hiện tiến trình đào tạo đó tuỳ theo điều
kiện và năng lực về tài chính, về quỹ thời
gian,... Do vậy, vai trò và nhiệm vụ của
người dạy luôn được áp dụng phương
pháp tích cực; cơ chế quản lý cần phải
mềm dẻo và thích hợp.
Hiện nay đối với ngành giáo dục - đào
tạo, việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ là
một xu thế tất yếu của các trường đại học,
cao đẳng ở Việt Nam, nhất là toàn ngành
đang thực hiện đổi mới căn bản và toàn
diện. Song, quá trình thực hiện hình thức
đào tạo này không tránh khỏi những hạn
chế, bất cập lớn cả về chương trình đào
tạo, cách thức quản lý, phương pháp dạy
và học cũng như cơ sở vật chất. Cần phải
kịp thời có các giải pháp khắc phục những
khó khăn, bất cập, không để ảnh hưởng
tiêu cực đến chất lượng đào tạo. Trường
Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
đã ý thức được điều đó, hiện đang cùng
nhau xây dựng chương trình hành động
thiết thực, cụ thể với tinh thần: người học,
người dạy và nhà quản lý cùng nhận thức
và hành động để mang lại hiệu quả cao
nhất trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS. Trần Thanh Ái (2010). “Đào tạo theo hệ thống tín chỉ - các nguyên
lý, thực trạng và giải pháp”. Tham luận tại Hội nghị toàn quốc tại Đại học Sài Gòn,
tháng 5/2010.
2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. “Phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ”.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ. Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2007.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012). Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế