LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
123Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
Đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân tại các khu công 
nghiệp góp phần phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội 
ở Việt Nam hiện nay
Meeting housing needs for workers in industrial parks making 
successful development of socio-economic situation 
in Vietnam
Nguyễn Thị Nhan
Email: 
[email protected]
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 24/5/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 26/12/2018
Ngày chấp nhận đĕng: 27/12/2018 
Tóm tắt
Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển thị trường nhà ở cho những người có khả nĕng thanh toán, tại Việt 
Nam vẫn còn những đối tượng gặp khó khĕn về nhà ở, trong đó phải kể đến số lượng lớn công nhân 
tại các khu công nghiệp (KCN) - đối tượng đang có số lượng đông đảo và có xu hướng ngày càng gia 
tĕng. Theo kết quả khảo sát cho thấy, 80% công nhân tại các KCN hiện nay đang phải sống trong những 
nhà trọ chật hẹp, không đủ các điều kiện về vệ sinh môi trường. Điều này không chỉ gây trở ngại trong 
ổn định cuộc sống của người công nhân mà còn ảnh hưởng đến sự gắn kết giữa người công nhân với 
doanh nghiệp và sự phát triển bền vững về mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là một trong những 
vấn đề xã hội bức xúc cần được giải quyết kịp thời và hiệu quả. Vì vậy, bài viết đã đưa ra một số giải 
pháp nhằm giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN hiện nay. 
Từ khóa: Công nhân; gia đình công nhân; khu công nghiệp.
Abstract
In addition to promoting the housing market for those who are able to pay, in Vietnam there are still 
people with housing difficulties, including the large number of workers in industrial zones - the number 
of people is increasing and increasing. According to the survey results, 80% of workers in industrial 
zones currently live in cramped motels, not enough environmental sanitation conditions. This not only 
hinders the stabilization of workers’ lives, but also affects the link between workers and businesses and 
the country’s socio-economic sustainability. This is one of the pressing social issues that need to be 
resolved in a timely and effective manner. Therefore, the article has given some solutions to solve the 
problem of housing for workers in the current industrial zones.
Keyewoks: Worker; workers’ families; industrial area.
cần có nhà ở, đảm bảo các điều kiện sinh hoạt tối 
thiểu để nghỉ ngơi nhằm tái tạo lại sức lao động và 
tiếp tục cho quá trình sản xuất. Người công nhân 
sẽ yên tâm làm việc và gắn bó với doanh nghiệp, 
KCN nếu như họ được đảm bảo về nhà ở và các 
điều kiện cần thiết để ổn định cuộc sống.
Ngược lại, khi phải sống trong điều kiện không 
đảm bảo về chỗ ở, người công nhân sẽ rơi vào 
trạng thái lo lắng, tinh thần bất an, do đó làm giảm 
sự tập trung trong công việc, đóng góp của họ 
vào hoạt động sản xuất của đơn vị sử dụng lao 
động bị giảm sút, đồng thời xu hướng chuyển việc, 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhà ở là một trong những nhu cầu tối thiểu của mỗi 
con người, bảo đảm nhà ở cho người dân là một 
trong những vấn đề luôn được quan tâm ở mọi 
thời đại. Đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho công nhân 
tại các KCN là một trong những yếu tố quyết định 
chất lượng cuộc sống và tái sản xuất sức lao động 
của công nhân. Sau thời gian làm việc, công nhân 
Người phản biện: 1. PGS.TS. Đỗ Thi Thạch 
 2. TS. Nguyễn Thị Kim Nguyên
124
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
“nhảy việc” diễn ra thường xuyên. Hay nói cách 
khác, nhóm công nhân này không thể “an cư” để 
“lạc nghiệp”.
Thực tế cho thấy, khi công nhân phải sống trong 
những ngôi nhà không đảm bảo điều kiện vệ sinh, 
an ninh trật tự thì nguy cơ về bệnh tật, những rắc 
rối trong cuộc sống cũng sẽ tĕng lên. Tình trạng 
sức khỏe của công nhân không tốt hoặc những 
bất ổn trong cuộc sống sẽ làm giảm hiệu quả 
làm việc, nĕng suất sản xuất của nhà máy bị ảnh 
hưởng theo chiều hướng xấu.
Việc giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các 
KCN, không chỉ đảm bảo tinh thần làm việc cho 
người công nhân mà còn là động lực để giữ chân 
công nhân tại các doanh nghiệp, ổn định nhân sự 
là yếu tố quan trọng khi tiến hành các hoạt động 
sản xuất. Với nhân sự ổn định, doanh nghiệp sẽ 
không phải mất thời gian đào tạo nhân lực mới 
được tuyển dụng, tạo điều kiện duy trì và nâng 
cao nĕng suất lao động, từ đó gia tĕng lợi nhuận.
Công nhân tại các KCN chủ yếu xuất thân từ các 
gia đình nông dân ở các địa phương thuộc nhiều 
vùng nông thôn trong cả nước. Đa phần có tuổi 
đời trẻ, mới tốt nghiệp trung học phổ thông (số ít 
có trình độ trung học cơ sở) đến làm việc tại các 
KCN [1]. Họ có nhu cầu tìm kiếm nhà ở để ổn định 
cuộc sống nhưng do thu nhập thấp và muốn có 
thêm tiền tích lũy nên họ thường chọn những nhà 
trọ giá rẻ để “sống tạm”. Họ biết phòng trọ giá rẻ 
có diện tích nhỏ hẹp, điều kiện vệ sinh, an ninh 
trật tự không đảm bảo, nhưng vì muốn giảm thiểu 
các chi phí sinh hoạt, họ đành chấp nhận thuê để 
sống tạm qua ngày. Những công nhân chưa kết 
hôn thường ở ghép 2 đến 4 người/1 phòng trọ để 
giảm chi phí [2] . Việc tập trung đông công nhân 
mới nhập cư tại khu vực vốn có điều kiện vệ sinh, 
an ninh trật tự không tốt sẽ làm nảy sinh các tệ 
nạn xã hội và làm cho vệ sinh môi trường khu vực 
đó bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Thêm vào đó 
tâm lý sống tạm bợ sẽ khiến cho số lượng công 
nhân tại địa phương luôn dao động, gây tác động 
xấu đối với đơn vị tuyển dụng, do đó lợi nhuận của 
các doanh nghiệp tại các KCN có thể giảm do số 
lượng công nhân không ổn định. Sự giảm sút về 
lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến đóng góp của doanh 
nghiệp vào nguồn thu của địa phương giảm...
Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề nhà ở cho 
công nhân làm việc tại các KCN là điều mà chính 
quyền trung ương và địa phương cần phải quan 
tâm, tiến hành thực hiện tốt những chủ trương, 
chính sách liên quan đến vấn đề này.
2. THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU NHÀ 
Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KHU CÔNG 
NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo ước tính, hiện nay Việt Nam có khoảng gần 
2 triệu công nhân đang làm việc, sinh sống tại 
gần 200 KCN trên cả nước, nên nhu cầu nhà ở 
cho công nhân đang rất lớn [3]. Việc chĕm lo giải 
quyết nhà ở cho công nhân luôn được Đảng và 
Nhà nước ta quan tâm, xác định là một vấn đề 
xã hội, một nhiệm vụ trọng tâm để phát triển kinh 
tế - xã hội. Đến nay cả nước đã đưa vào sử dụng 
3,7 triệu m2 nhà ở xã hội tại các KCN, góp phần 
giải quyết chỗ ở cho gần 500.000 người lao động 
có thu nhập thấp, là công nhân tại các KCN [7]. 
Đảng, Nhà nước và các địa phương đã đưa ra 
nhiều đường lối, chính sách nhằm tạo hành lang 
pháp lý cho các hoạt động đầu tư xây dựng nhà 
ở xã hội cho công nhân như: chính sách vay vốn, 
ưu đãi vốn chỉ tiêu quy hoạch và miễn giảm thuế...
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát 
triển nhà ở cho công nhân trong các KCN chưa 
đáp ứng được nhu cầu, chưa đạt chỉ tiêu đã đề 
ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia. 
Tính đến tháng 11/2016, cả nước mới hoàn thành 
đầu tư xây dựng xong 179 dự án nhà ở xã hội 
tại khu vực đô thị và các KCN, bằng 28% chỉ tiêu 
đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia 
đến nĕm 2020. Các bộ, ngành, địa phương cho 
rằng, việc cân đối nguồn vốn ngân sách cho phát 
triển nhà ở xã hội hiện nay còn gặp không ít khó 
khĕn. Việc phát triển phân khúc nhà ở cho thuê 
còn chậm, mặc dù nhiều chính sách đã được triển 
khai, tuy nhiên nhiều địa phương chưa kịp thời, 
dẫn tới kết quả thực hiện chương trình nhà ở xã 
hội còn chậm, nhất là các dự án nhà ở xã hội tại 
các KCN.
Đồng thời, việc trực tiếp xây dựng nhà ở xã hội 
cho công nhân trong các KCN chủ yếu là do doanh 
nghiệp sử dụng lao động xây dựng. Nhưng hiện 
nay xu hướng các doanh nghiệp quan tâm giải 
quyết vấn đề nhà ở cho công nhân có chiều hướng 
giảm, các KCN đang xem nhẹ việc cung ứng nhà ở 
cho công nhân. Việc phát triển các doanh nghiệp, 
nhất là các doanh nghiệp FDI hiện nay chủ yếu tập 
trung vào xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh 
mà chưa chú ý xây dựng các công trình hạ tầng 
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
125Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
xã hội thiết yếu như: nhà tập thể, nhà trẻ, trường 
học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí... Theo thống 
kê trên cả nước, trung bình chỉ 1 doanh nghiệp/1 
địa phương tự xây dựng hoặc đi thuê nhà cho 
công nhân [1].
Trong các doanh nghiệp thực hiện cung cấp nhà 
ở xã hội cho công nhân làm việc tại các KCN, thì 
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần là những 
đơn vị tham gia nhiều nhất trong việc cung ứng 
nhà ở cho công nhân. Xét về mặt tỷ lệ, nhìn chung 
tỷ lệ các doanh nghiệp trong nước tham gia cung 
ứng chỗ ở cho công nhân làm việc trong các KCN 
nhiều hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài; 
các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần 
đảm bảo chỗ ở tốt hơn so với doanh nghiệp nhà 
nước. Xét theo quy mô lao động, kết quả điều tra 
cũng cho thấy, số doanh nghiệp có quy mô lao 
động dưới 300 người chú trọng đến việc cung cấp, 
giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tốt hơn so 
với những doanh nghiệp mà quy mô lao động từ 
500 người trở lên.
Kết quả thực tế hiện nay mới có khoảng 20% công 
nhân có chỗ ở ổn định, 80% công nhân trong các 
KCN đang phải thuê nhà trọ của tư nhân trong điều 
kiện chật hẹp, vệ sinh môi trường không đảm bảo, 
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đời sống, khả nĕng 
tái sản xuất sức lao động và đối mặt với nhiều 
nguy cơ như: tình hình mất an ninh trật tự, an toàn 
xã hội, các tệ nạn xã hội; thiếu chỗ vui chơi, giải trí 
[5, tr. 66]. Vì ở nhà trọ nên bản thân công nhân và 
gia đình chỉ “tạm trú” tại nơi ở nên gặp khó khĕn 
khi tham gia các chính sách an sinh xã hội (một số 
trẻ em không được tiêm chủng miễn phí, không 
được học trường công lập...) và các hoạt động 
vĕn hóa của địa phương. Chính điều này đang tạo 
nên khó khĕn cho công nhân và gia đình họ trong 
ổn định đời sống, chĕm sóc và giáo dục con cái. 
Các doanh nghiệp và KCN gặp khó khĕn trong ổn 
định lực lượng sản xuất được thể hiện cụ thể:
Thứ nhất, thu nhập và chi tiêu của người công 
nhân bị hạn chế
Kết quả điều tra của Viện Công nhân và Công 
đoàn cho thấy, 95% doanh nghiệp thuộc KCN trả 
tiền lương hàng tháng cho người lao động là ở 
mức dưới 2,5 triệu đồng/người/tháng. Số doanh 
nghiệp chi trả tiền lương bình quân cho người lao 
động trên 4,5 triệu đồng/người/tháng chiếm tỷ lệ 
rất nhỏ. Chỉ có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài và doanh nghiệp nhà nước trung ương có 
khả nĕng chi trả tiền lương cho người lao động ở 
mức 2,5 triệu đồng trở lên [9]. Mặc dù, mức tiền 
lương tối thiểu đối với người lao động làm việc 
tại các doanh nghiệp tĕng lên nhưng vẫn còn có 
những doanh nghiệp chi trả bình quân cho người 
lao động ở mức dưới 2 triệu đồng/người/tháng. 
Kết quả điều tra cũng cho thấy, số lượng, tỷ lệ 
doanh nghiệp chi trả mức lương từ 2 đến 2,5 triệu 
đồng/người/tháng tương đương với số lượng, 
tỷ lệ thực hiện chi trả lương thưởng cho người 
lao động từ 3 đến 4 triệu đồng/người/tháng. Nhìn 
chung số doanh nghiệp thưởng cho người công 
nhân cao có xu hướng giảm theo mức độ tĕng 
thu nhập mà công nhân nhận được. 70% doanh 
nghiệp chi trả lương đối với người lao động ở mức 
dưới 3 triệu đồng/người/tháng; tỉ lệ chi trả lương ở 
mức từ 3 đến 4 triệu đồng/người/tháng chưa đến 
30% số doanh nghiệp trả lời phỏng vấn nên có 
thể thấy rằng mức tiền lương bình quân mà doanh 
nghiệp chi trả cho người lao động chỉ dao động 
xung quanh mức 3 triệu đồng/người/tháng [7].
Mặc dù, tiền lương thực tế của người lao động 
dao động ở mức 3 triệu đồng/người/tháng, nhưng 
thu nhập thực tế bình quân của người lao động 
làm việc tại các KCN đạt khoảng 4,1 triệu đồng/
người/tháng [3]. Sự gia tĕng thu nhập của người 
lao động trong các KCN một phần là do tiền công 
làm thêm của người lao động, một phần là hỗ trợ 
từ doanh nghiệp đối với nhà ở, đi lại và một số 
khoản thu vãng lai khác của người lao động. Nói 
cách khác, những khoản hỗ trợ người lao động 
thuê nhà ở cũng góp phần làm tĕng thu nhập của 
người lao động, khi họ tối thiểu hóa chi phí chi trả 
cho thuê nhà. Đối với các khoản chi tiêu của người 
lao động làm việc tại các KCN, kết quả điều tra 
cho thấy, bình quân một người lao động một tháng 
chi khoảng 2,8 triệu đồng. Trong đó hàng tháng 
người lao động giành số tiền chi cho ĕn, mặc là 
1,5 triệu đồng. Để thuê một cĕn phòng đảm bảo 
được nhu cầu sinh hoạt ở mức tối thiểu, người 
lao động phải chi trả bình quân là 589.100 đồng/
người/tháng. Chi phí này cao hơn 4 lần mức hỗ 
trợ bình quân mà họ nhận được từ phía doanh 
nghiệp sử dụng lao động (bình quân 47.200 đồng/
người/tháng) [3].
Chính vì vậy, để giảm thiểu chi tiêu nhằm gia tĕng 
thu nhập, các nhóm lao động làm việc tại các 
doanh nghiệp trong KCN cùng nhau thuê một cĕn 
phòng trọ xung quanh các KCN. Các nhà trọ này 
126
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
thì hầu như không đáp ứng được các tiêu chuẩn 
kỹ thuật trong thiết kế xây dựng: diện tích nhỏ, 
chật hẹp, ẩm thấp vào mùa mưa, nóng bức vào 
mùa nắng và rét mướt vào mùa đông; không có 
phòng vệ sinh riêng; hệ thống thoát nước, xử lý 
rác thải sinh hoạt của khu nhà trọ không được các 
chủ nhà trọ quan tâm xây dựng nên nước và rác 
được thải ra khu vực xung quanh gây ra tình trạng 
ô nhiễm môi trường... Nói cách khác, người lao 
động đang làm việc tại các KCN đang phải thuê 
những ngôi nhà để sống trong tình trạng tạm bợ 
và gặp nhiều khó khĕn.
Thứ hai, việc ổn định nhân sự và phát triển của 
các doanh nghiệp tại các KCN gặp khó khĕn
Tích lũy không cao, thêm vào đó người lao động 
làm việc tại các KCN lại gặp nhiều khó khĕn liên 
quan đến chỗ ở, cũng như các phương tiện phục 
vụ sinh hoạt hàng ngày. Do đó, sự gắn bó lâu dài 
của người lao động với các KCN rất lỏng lẻo.
Xét theo nhóm tuổi, sự gắn bó của người lao động 
với các KCN trên 1 nĕm nhiều nhất ở nhóm lao 
động dưới 30 tuổi. Tuổi càng cao, sự gắn bó của 
người lao động với các khu công nghiệp càng 
giảm. Với nhóm tuổi từ 40 trở lên thì sự gắn bó 
của người lao động với KCN còn rất hạn hữu. Hầu 
như người ta rất khó tìm thấy lao động phổ thông ở 
nhóm tuổi này tại các KCN. Xét theo thời gian làm 
việc tại các KCN, trong tổng số 170 người được 
điều tra thì chỉ có 10% số lao động được điều tra 
gắn bó trên 5 nĕm với các khu công nghiệp (17 
người), 19,73% chỉ gắn bó khoảng 3 đến 5 nĕm 
(33 người), 55,29% người lao động chỉ gắn bó với 
các khu công nghiệp trong khoảng thời gian từ 1 
đến 3 nĕm (94 người) và 15% số lao động được 
phỏng vấn mới chỉ gắn bó với các KCN trên chưa 
tới 12 tháng (26 người) [3].
Xét theo tình trạng hộ khẩu, mức độ gắn bó với 
các KCN trong khoảng thời gian từ 1 đến 3 nĕm 
của lao động ngoại tỉnh cao hơn so với lao động 
người bản địa. Tuy nhiên, với khoảng thời gian từ 
3 nĕm trở lên thì mức độ gắn bó của lao động bản 
địa lại cao hơn so với nhóm đối tượng lao động 
ngoại tỉnh. Xét theo tình trạng hôn nhân, lao động 
chưa có gia đình gắn bó với KCN cao hơn so với 
lao động đã có gia đình trong độ tuổi dưới 30, với 
nhóm đối tượng trên 30 tuổi, lao động có gia đình 
thể hiện sự gắn bó với KCN cao hơn.
Khi mới tham gia vào thị trường lao động cho đến 
30 tuổi, phần lớn người lao động có xu hướng 
thay đổi công việc để tìm ra nghề nghiệp phù hợp 
với bản thân. Thực tế điều tra 170 lao động đang 
làm việc tại các KCN cho thấy có tới 60% lao động 
được điều tra dưới 30 tuổi chỉ gắn bó với các KCN 
tối đa 3 nĕm. Còn ở độ tuổi từ 30 trở lên và đặc 
biệt là đã ổn định về gia đình, nếu không vì tình 
trạng bất khả kháng, hay có được cơ hội thĕng 
tiến, người lao động rất ngại phải chuyển đổi nơi 
làm việc. Tuy nhiên, ở các khu công nghiệp, người 
lao động có trình độ chuyên môn không cao (cơ 
hội thĕng tiến khi chuyển đổi công việc là hầu như 
không có), nhưng số đối tượng có thời gian gắn 
bó trên 3 nĕm, 5 nĕm lại có dấu hiệu giảm dần [8]. 
Kết quả này một lần nữa khẳng định tính hợp lý về 
lý thuyết liên quan đến sự tham gia vào thị trường 
lao động, cũng như tính sự gắn bó không cao của 
lao động với các KCN.
Thứ ba, tình hình an ninh trật tự và phát triển xã 
hội có những diễn biến phức tạp
Phần lớn công nhân tại các KCN, khu chế xuất 
(KCX) đang sống trong môi trường ba không: 
không tivi, không sách báo, không internet... Tại 
hầu hết các cụm, KCN không có nơi vui chơi giải 
trí công cộng: công viên, sân thể thao, nhà hát, rạp 
chiếu phim... Bên cạnh đó, áp lực của công việc 
và làm thêm giờ, nhiều công nhân cả tháng trời 
không biết đến tivi, sách, báo. Điều đó có nghĩa, 
người lao động tại các KCN đang ở trong tình 
trạng “đói” về vĕn hóa. Những công nhân sau giờ 
làm việc nặng nhọc, vất vả thường là tụ tập nấu 
nướng, chơi bài, đánh cờ ở nơi thuê phòng, rủ 
nhau đi nhậu, quán cà phê, hát karaoke... Những 
hoạt động này đã ảnh hưởng đến tình hình an ninh 
trật tự chung nơi họ thuê nhà để trọ...
Thêm vào đó, do sống xa nhà thiếu thốn tình cảm, 
tình trạng nam nữ cùng sống chung nhà trọ nên 
quan hệ nam nữ đôi khi thiếu lành mạnh, phổ biến 
là tình hình “sống chung, sống thử” tại các nhà trọ 
quanh KCN như hiện nay. Trong đó, nổi lên sự 
sa sút trong đời sống hôn nhân gia đình của lao 
động nữ, họ ít có cơ hội giao lưu tìm hiểu để xây 
dựng hạnh phúc gia đình, tệ nạn mại dâm và các 
vấn đề xã hội khác phát sinh ngày càng nhiều tại 
những KCN.
3. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NHÀ Ở CHO 
CÔNG NHÂN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở 
VIỆT NAM HIỆN NAY
Những bất cập trong việc cung ứng nhà ở cho 
công nhân tại các KCN hiện nay có nhiều nguyên 
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
127Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
nhân, trong đó có sự bất cập trong chính sách nhà 
nước, sự thiếu quan tâm của các tổ chức chính 
trị - xã hội và doanh nghiệp. Để giải quyết được 
vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN hiện nay 
cần sự quan tâm, thực hiện tốt chức nĕng của các 
cơ quan, cũng như sự phối hợp thực hiện giữa 
Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và doanh 
nghiệp, cụ thể:
Thứ nhất, cần giải tỏa những bất cập trong chính 
sách của Nhà nước về nhà ở xã hội cho người lao 
động trong KCN
Trong Chiến lược nhà ở giai đoạn 2011-2020 đã 
khẳng định nhà ở xã hội phải được ưu tiên xây 
dựng để những người thu nhập thấp có cơ hội 
sở hữu nhà ở. Nghị định số 188/2013/NĐ-CP của 
Chính phủ ban hành đã cụ thể hóa chiến lược này 
hay Luật Nhà ở được Quốc hội khóa XIII thông 
qua tại Kỳ họp thứ 8 cũng có một chương riêng 
về phát triển nhà ở xã hội. Chính sách này cho 
thấy sự tôn trọng quyền có chỗ ở của người dân 
như Hiến pháp đã khẳng định, nó cũng phù hợp 
với các quan điểm của Đảng về giải quyết mối 
quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã 
hội. Các đối tượng khó khĕn về nhà ở, đặc biệt là 
đối tượng được hỗ trợ như: hộ dân nghèo ở nông 
thôn, người có công, lực lượng vũ trang, công 
chức viên chức trong hệ thống chính trị, sinh viên, 
công nhân ở khu công nghiệp đều là đối tượng 
được thụ hưởng trong chính sách nhà ở xã hội.
Thứ hai, khuyến khích người dân xây dựng nhà ở 
cho người lao động thuê
Trong điều kiện số lao động ngày càng tĕng, 
doanh nghiệp, các ban quản lý khu công nghiệp, 
các công ty xây dựng cơ sở hạ tầng tại các KCN 
chưa đáp ứng được, việc khuyến khích người dân 
xây dựng nhà ở cho người lao động KCN thuê 
cũng là một giải pháp thực tiễn.
Để khuyến khích người dân tham gia xây dựng 
nhà ở cho người lao động làm việc trong KCN 
thuê, Nhà nước cần sớm ban hành các nghị định 
và thông tư hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở (sửa 
đổi) hỗ trợ về vay vốn (số vốn, lãi suất) tương tự 
như doanh nghiệp. Hỗ trợ thủ tục pháp lý, tạo 
điền kiện thuận tiện cho việc xây dựng nhà ở cho 
người lao động