Tóm tắt
Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển thị trường nhà ở cho những người có khả năng thanh toán, tại Việt
Nam vẫn còn những đối tượng gặp khó khăn về nhà ở, trong đó phải kể đến số lượng lớn công nhân
tại các khu công nghiệp (KCN) - đối tượng đang có số lượng đông đảo và có xu hướng ngày càng gia
tăng. Theo kết quả khảo sát cho thấy, 80% công nhân tại các KCN hiện nay đang phải sống trong những
nhà trọ chật hẹp, không đủ các điều kiện về vệ sinh môi trường. Điều này không chỉ gây trở ngại trong
ổn định cuộc sống của người công nhân mà còn ảnh hưởng đến sự gắn kết giữa người công nhân với
doanh nghiệp và sự phát triển bền vững về mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là một trong những
vấn đề xã hội bức xúc cần được giải quyết kịp thời và hiệu quả. Vì vậy, bài viết đã đưa ra một số giải
pháp nhằm giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN hiện nay.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp góp phần phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
123Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
Đáp ứng nhu cầu nhà ở cho công nhân tại các khu công
nghiệp góp phần phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội
ở Việt Nam hiện nay
Meeting housing needs for workers in industrial parks making
successful development of socio-economic situation
in Vietnam
Nguyễn Thị Nhan
Email: nguyenthinhan010187@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 24/5/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 26/12/2018
Ngày chấp nhận đĕng: 27/12/2018
Tóm tắt
Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển thị trường nhà ở cho những người có khả nĕng thanh toán, tại Việt
Nam vẫn còn những đối tượng gặp khó khĕn về nhà ở, trong đó phải kể đến số lượng lớn công nhân
tại các khu công nghiệp (KCN) - đối tượng đang có số lượng đông đảo và có xu hướng ngày càng gia
tĕng. Theo kết quả khảo sát cho thấy, 80% công nhân tại các KCN hiện nay đang phải sống trong những
nhà trọ chật hẹp, không đủ các điều kiện về vệ sinh môi trường. Điều này không chỉ gây trở ngại trong
ổn định cuộc sống của người công nhân mà còn ảnh hưởng đến sự gắn kết giữa người công nhân với
doanh nghiệp và sự phát triển bền vững về mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là một trong những
vấn đề xã hội bức xúc cần được giải quyết kịp thời và hiệu quả. Vì vậy, bài viết đã đưa ra một số giải
pháp nhằm giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN hiện nay.
Từ khóa: Công nhân; gia đình công nhân; khu công nghiệp.
Abstract
In addition to promoting the housing market for those who are able to pay, in Vietnam there are still
people with housing difficulties, including the large number of workers in industrial zones - the number
of people is increasing and increasing. According to the survey results, 80% of workers in industrial
zones currently live in cramped motels, not enough environmental sanitation conditions. This not only
hinders the stabilization of workers’ lives, but also affects the link between workers and businesses and
the country’s socio-economic sustainability. This is one of the pressing social issues that need to be
resolved in a timely and effective manner. Therefore, the article has given some solutions to solve the
problem of housing for workers in the current industrial zones.
Keyewoks: Worker; workers’ families; industrial area.
cần có nhà ở, đảm bảo các điều kiện sinh hoạt tối
thiểu để nghỉ ngơi nhằm tái tạo lại sức lao động và
tiếp tục cho quá trình sản xuất. Người công nhân
sẽ yên tâm làm việc và gắn bó với doanh nghiệp,
KCN nếu như họ được đảm bảo về nhà ở và các
điều kiện cần thiết để ổn định cuộc sống.
Ngược lại, khi phải sống trong điều kiện không
đảm bảo về chỗ ở, người công nhân sẽ rơi vào
trạng thái lo lắng, tinh thần bất an, do đó làm giảm
sự tập trung trong công việc, đóng góp của họ
vào hoạt động sản xuất của đơn vị sử dụng lao
động bị giảm sút, đồng thời xu hướng chuyển việc,
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhà ở là một trong những nhu cầu tối thiểu của mỗi
con người, bảo đảm nhà ở cho người dân là một
trong những vấn đề luôn được quan tâm ở mọi
thời đại. Đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho công nhân
tại các KCN là một trong những yếu tố quyết định
chất lượng cuộc sống và tái sản xuất sức lao động
của công nhân. Sau thời gian làm việc, công nhân
Người phản biện: 1. PGS.TS. Đỗ Thi Thạch
2. TS. Nguyễn Thị Kim Nguyên
124
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
“nhảy việc” diễn ra thường xuyên. Hay nói cách
khác, nhóm công nhân này không thể “an cư” để
“lạc nghiệp”.
Thực tế cho thấy, khi công nhân phải sống trong
những ngôi nhà không đảm bảo điều kiện vệ sinh,
an ninh trật tự thì nguy cơ về bệnh tật, những rắc
rối trong cuộc sống cũng sẽ tĕng lên. Tình trạng
sức khỏe của công nhân không tốt hoặc những
bất ổn trong cuộc sống sẽ làm giảm hiệu quả
làm việc, nĕng suất sản xuất của nhà máy bị ảnh
hưởng theo chiều hướng xấu.
Việc giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các
KCN, không chỉ đảm bảo tinh thần làm việc cho
người công nhân mà còn là động lực để giữ chân
công nhân tại các doanh nghiệp, ổn định nhân sự
là yếu tố quan trọng khi tiến hành các hoạt động
sản xuất. Với nhân sự ổn định, doanh nghiệp sẽ
không phải mất thời gian đào tạo nhân lực mới
được tuyển dụng, tạo điều kiện duy trì và nâng
cao nĕng suất lao động, từ đó gia tĕng lợi nhuận.
Công nhân tại các KCN chủ yếu xuất thân từ các
gia đình nông dân ở các địa phương thuộc nhiều
vùng nông thôn trong cả nước. Đa phần có tuổi
đời trẻ, mới tốt nghiệp trung học phổ thông (số ít
có trình độ trung học cơ sở) đến làm việc tại các
KCN [1]. Họ có nhu cầu tìm kiếm nhà ở để ổn định
cuộc sống nhưng do thu nhập thấp và muốn có
thêm tiền tích lũy nên họ thường chọn những nhà
trọ giá rẻ để “sống tạm”. Họ biết phòng trọ giá rẻ
có diện tích nhỏ hẹp, điều kiện vệ sinh, an ninh
trật tự không đảm bảo, nhưng vì muốn giảm thiểu
các chi phí sinh hoạt, họ đành chấp nhận thuê để
sống tạm qua ngày. Những công nhân chưa kết
hôn thường ở ghép 2 đến 4 người/1 phòng trọ để
giảm chi phí [2] . Việc tập trung đông công nhân
mới nhập cư tại khu vực vốn có điều kiện vệ sinh,
an ninh trật tự không tốt sẽ làm nảy sinh các tệ
nạn xã hội và làm cho vệ sinh môi trường khu vực
đó bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Thêm vào đó
tâm lý sống tạm bợ sẽ khiến cho số lượng công
nhân tại địa phương luôn dao động, gây tác động
xấu đối với đơn vị tuyển dụng, do đó lợi nhuận của
các doanh nghiệp tại các KCN có thể giảm do số
lượng công nhân không ổn định. Sự giảm sút về
lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến đóng góp của doanh
nghiệp vào nguồn thu của địa phương giảm...
Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề nhà ở cho
công nhân làm việc tại các KCN là điều mà chính
quyền trung ương và địa phương cần phải quan
tâm, tiến hành thực hiện tốt những chủ trương,
chính sách liên quan đến vấn đề này.
2. THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU NHÀ
Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo ước tính, hiện nay Việt Nam có khoảng gần
2 triệu công nhân đang làm việc, sinh sống tại
gần 200 KCN trên cả nước, nên nhu cầu nhà ở
cho công nhân đang rất lớn [3]. Việc chĕm lo giải
quyết nhà ở cho công nhân luôn được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm, xác định là một vấn đề
xã hội, một nhiệm vụ trọng tâm để phát triển kinh
tế - xã hội. Đến nay cả nước đã đưa vào sử dụng
3,7 triệu m2 nhà ở xã hội tại các KCN, góp phần
giải quyết chỗ ở cho gần 500.000 người lao động
có thu nhập thấp, là công nhân tại các KCN [7].
Đảng, Nhà nước và các địa phương đã đưa ra
nhiều đường lối, chính sách nhằm tạo hành lang
pháp lý cho các hoạt động đầu tư xây dựng nhà
ở xã hội cho công nhân như: chính sách vay vốn,
ưu đãi vốn chỉ tiêu quy hoạch và miễn giảm thuế...
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát
triển nhà ở cho công nhân trong các KCN chưa
đáp ứng được nhu cầu, chưa đạt chỉ tiêu đã đề
ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia.
Tính đến tháng 11/2016, cả nước mới hoàn thành
đầu tư xây dựng xong 179 dự án nhà ở xã hội
tại khu vực đô thị và các KCN, bằng 28% chỉ tiêu
đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia
đến nĕm 2020. Các bộ, ngành, địa phương cho
rằng, việc cân đối nguồn vốn ngân sách cho phát
triển nhà ở xã hội hiện nay còn gặp không ít khó
khĕn. Việc phát triển phân khúc nhà ở cho thuê
còn chậm, mặc dù nhiều chính sách đã được triển
khai, tuy nhiên nhiều địa phương chưa kịp thời,
dẫn tới kết quả thực hiện chương trình nhà ở xã
hội còn chậm, nhất là các dự án nhà ở xã hội tại
các KCN.
Đồng thời, việc trực tiếp xây dựng nhà ở xã hội
cho công nhân trong các KCN chủ yếu là do doanh
nghiệp sử dụng lao động xây dựng. Nhưng hiện
nay xu hướng các doanh nghiệp quan tâm giải
quyết vấn đề nhà ở cho công nhân có chiều hướng
giảm, các KCN đang xem nhẹ việc cung ứng nhà ở
cho công nhân. Việc phát triển các doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp FDI hiện nay chủ yếu tập
trung vào xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh
mà chưa chú ý xây dựng các công trình hạ tầng
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
125Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
xã hội thiết yếu như: nhà tập thể, nhà trẻ, trường
học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí... Theo thống
kê trên cả nước, trung bình chỉ 1 doanh nghiệp/1
địa phương tự xây dựng hoặc đi thuê nhà cho
công nhân [1].
Trong các doanh nghiệp thực hiện cung cấp nhà
ở xã hội cho công nhân làm việc tại các KCN, thì
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần là những
đơn vị tham gia nhiều nhất trong việc cung ứng
nhà ở cho công nhân. Xét về mặt tỷ lệ, nhìn chung
tỷ lệ các doanh nghiệp trong nước tham gia cung
ứng chỗ ở cho công nhân làm việc trong các KCN
nhiều hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài;
các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần
đảm bảo chỗ ở tốt hơn so với doanh nghiệp nhà
nước. Xét theo quy mô lao động, kết quả điều tra
cũng cho thấy, số doanh nghiệp có quy mô lao
động dưới 300 người chú trọng đến việc cung cấp,
giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tốt hơn so
với những doanh nghiệp mà quy mô lao động từ
500 người trở lên.
Kết quả thực tế hiện nay mới có khoảng 20% công
nhân có chỗ ở ổn định, 80% công nhân trong các
KCN đang phải thuê nhà trọ của tư nhân trong điều
kiện chật hẹp, vệ sinh môi trường không đảm bảo,
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đời sống, khả nĕng
tái sản xuất sức lao động và đối mặt với nhiều
nguy cơ như: tình hình mất an ninh trật tự, an toàn
xã hội, các tệ nạn xã hội; thiếu chỗ vui chơi, giải trí
[5, tr. 66]. Vì ở nhà trọ nên bản thân công nhân và
gia đình chỉ “tạm trú” tại nơi ở nên gặp khó khĕn
khi tham gia các chính sách an sinh xã hội (một số
trẻ em không được tiêm chủng miễn phí, không
được học trường công lập...) và các hoạt động
vĕn hóa của địa phương. Chính điều này đang tạo
nên khó khĕn cho công nhân và gia đình họ trong
ổn định đời sống, chĕm sóc và giáo dục con cái.
Các doanh nghiệp và KCN gặp khó khĕn trong ổn
định lực lượng sản xuất được thể hiện cụ thể:
Thứ nhất, thu nhập và chi tiêu của người công
nhân bị hạn chế
Kết quả điều tra của Viện Công nhân và Công
đoàn cho thấy, 95% doanh nghiệp thuộc KCN trả
tiền lương hàng tháng cho người lao động là ở
mức dưới 2,5 triệu đồng/người/tháng. Số doanh
nghiệp chi trả tiền lương bình quân cho người lao
động trên 4,5 triệu đồng/người/tháng chiếm tỷ lệ
rất nhỏ. Chỉ có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và doanh nghiệp nhà nước trung ương có
khả nĕng chi trả tiền lương cho người lao động ở
mức 2,5 triệu đồng trở lên [9]. Mặc dù, mức tiền
lương tối thiểu đối với người lao động làm việc
tại các doanh nghiệp tĕng lên nhưng vẫn còn có
những doanh nghiệp chi trả bình quân cho người
lao động ở mức dưới 2 triệu đồng/người/tháng.
Kết quả điều tra cũng cho thấy, số lượng, tỷ lệ
doanh nghiệp chi trả mức lương từ 2 đến 2,5 triệu
đồng/người/tháng tương đương với số lượng,
tỷ lệ thực hiện chi trả lương thưởng cho người
lao động từ 3 đến 4 triệu đồng/người/tháng. Nhìn
chung số doanh nghiệp thưởng cho người công
nhân cao có xu hướng giảm theo mức độ tĕng
thu nhập mà công nhân nhận được. 70% doanh
nghiệp chi trả lương đối với người lao động ở mức
dưới 3 triệu đồng/người/tháng; tỉ lệ chi trả lương ở
mức từ 3 đến 4 triệu đồng/người/tháng chưa đến
30% số doanh nghiệp trả lời phỏng vấn nên có
thể thấy rằng mức tiền lương bình quân mà doanh
nghiệp chi trả cho người lao động chỉ dao động
xung quanh mức 3 triệu đồng/người/tháng [7].
Mặc dù, tiền lương thực tế của người lao động
dao động ở mức 3 triệu đồng/người/tháng, nhưng
thu nhập thực tế bình quân của người lao động
làm việc tại các KCN đạt khoảng 4,1 triệu đồng/
người/tháng [3]. Sự gia tĕng thu nhập của người
lao động trong các KCN một phần là do tiền công
làm thêm của người lao động, một phần là hỗ trợ
từ doanh nghiệp đối với nhà ở, đi lại và một số
khoản thu vãng lai khác của người lao động. Nói
cách khác, những khoản hỗ trợ người lao động
thuê nhà ở cũng góp phần làm tĕng thu nhập của
người lao động, khi họ tối thiểu hóa chi phí chi trả
cho thuê nhà. Đối với các khoản chi tiêu của người
lao động làm việc tại các KCN, kết quả điều tra
cho thấy, bình quân một người lao động một tháng
chi khoảng 2,8 triệu đồng. Trong đó hàng tháng
người lao động giành số tiền chi cho ĕn, mặc là
1,5 triệu đồng. Để thuê một cĕn phòng đảm bảo
được nhu cầu sinh hoạt ở mức tối thiểu, người
lao động phải chi trả bình quân là 589.100 đồng/
người/tháng. Chi phí này cao hơn 4 lần mức hỗ
trợ bình quân mà họ nhận được từ phía doanh
nghiệp sử dụng lao động (bình quân 47.200 đồng/
người/tháng) [3].
Chính vì vậy, để giảm thiểu chi tiêu nhằm gia tĕng
thu nhập, các nhóm lao động làm việc tại các
doanh nghiệp trong KCN cùng nhau thuê một cĕn
phòng trọ xung quanh các KCN. Các nhà trọ này
126
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
thì hầu như không đáp ứng được các tiêu chuẩn
kỹ thuật trong thiết kế xây dựng: diện tích nhỏ,
chật hẹp, ẩm thấp vào mùa mưa, nóng bức vào
mùa nắng và rét mướt vào mùa đông; không có
phòng vệ sinh riêng; hệ thống thoát nước, xử lý
rác thải sinh hoạt của khu nhà trọ không được các
chủ nhà trọ quan tâm xây dựng nên nước và rác
được thải ra khu vực xung quanh gây ra tình trạng
ô nhiễm môi trường... Nói cách khác, người lao
động đang làm việc tại các KCN đang phải thuê
những ngôi nhà để sống trong tình trạng tạm bợ
và gặp nhiều khó khĕn.
Thứ hai, việc ổn định nhân sự và phát triển của
các doanh nghiệp tại các KCN gặp khó khĕn
Tích lũy không cao, thêm vào đó người lao động
làm việc tại các KCN lại gặp nhiều khó khĕn liên
quan đến chỗ ở, cũng như các phương tiện phục
vụ sinh hoạt hàng ngày. Do đó, sự gắn bó lâu dài
của người lao động với các KCN rất lỏng lẻo.
Xét theo nhóm tuổi, sự gắn bó của người lao động
với các KCN trên 1 nĕm nhiều nhất ở nhóm lao
động dưới 30 tuổi. Tuổi càng cao, sự gắn bó của
người lao động với các khu công nghiệp càng
giảm. Với nhóm tuổi từ 40 trở lên thì sự gắn bó
của người lao động với KCN còn rất hạn hữu. Hầu
như người ta rất khó tìm thấy lao động phổ thông ở
nhóm tuổi này tại các KCN. Xét theo thời gian làm
việc tại các KCN, trong tổng số 170 người được
điều tra thì chỉ có 10% số lao động được điều tra
gắn bó trên 5 nĕm với các khu công nghiệp (17
người), 19,73% chỉ gắn bó khoảng 3 đến 5 nĕm
(33 người), 55,29% người lao động chỉ gắn bó với
các khu công nghiệp trong khoảng thời gian từ 1
đến 3 nĕm (94 người) và 15% số lao động được
phỏng vấn mới chỉ gắn bó với các KCN trên chưa
tới 12 tháng (26 người) [3].
Xét theo tình trạng hộ khẩu, mức độ gắn bó với
các KCN trong khoảng thời gian từ 1 đến 3 nĕm
của lao động ngoại tỉnh cao hơn so với lao động
người bản địa. Tuy nhiên, với khoảng thời gian từ
3 nĕm trở lên thì mức độ gắn bó của lao động bản
địa lại cao hơn so với nhóm đối tượng lao động
ngoại tỉnh. Xét theo tình trạng hôn nhân, lao động
chưa có gia đình gắn bó với KCN cao hơn so với
lao động đã có gia đình trong độ tuổi dưới 30, với
nhóm đối tượng trên 30 tuổi, lao động có gia đình
thể hiện sự gắn bó với KCN cao hơn.
Khi mới tham gia vào thị trường lao động cho đến
30 tuổi, phần lớn người lao động có xu hướng
thay đổi công việc để tìm ra nghề nghiệp phù hợp
với bản thân. Thực tế điều tra 170 lao động đang
làm việc tại các KCN cho thấy có tới 60% lao động
được điều tra dưới 30 tuổi chỉ gắn bó với các KCN
tối đa 3 nĕm. Còn ở độ tuổi từ 30 trở lên và đặc
biệt là đã ổn định về gia đình, nếu không vì tình
trạng bất khả kháng, hay có được cơ hội thĕng
tiến, người lao động rất ngại phải chuyển đổi nơi
làm việc. Tuy nhiên, ở các khu công nghiệp, người
lao động có trình độ chuyên môn không cao (cơ
hội thĕng tiến khi chuyển đổi công việc là hầu như
không có), nhưng số đối tượng có thời gian gắn
bó trên 3 nĕm, 5 nĕm lại có dấu hiệu giảm dần [8].
Kết quả này một lần nữa khẳng định tính hợp lý về
lý thuyết liên quan đến sự tham gia vào thị trường
lao động, cũng như tính sự gắn bó không cao của
lao động với các KCN.
Thứ ba, tình hình an ninh trật tự và phát triển xã
hội có những diễn biến phức tạp
Phần lớn công nhân tại các KCN, khu chế xuất
(KCX) đang sống trong môi trường ba không:
không tivi, không sách báo, không internet... Tại
hầu hết các cụm, KCN không có nơi vui chơi giải
trí công cộng: công viên, sân thể thao, nhà hát, rạp
chiếu phim... Bên cạnh đó, áp lực của công việc
và làm thêm giờ, nhiều công nhân cả tháng trời
không biết đến tivi, sách, báo. Điều đó có nghĩa,
người lao động tại các KCN đang ở trong tình
trạng “đói” về vĕn hóa. Những công nhân sau giờ
làm việc nặng nhọc, vất vả thường là tụ tập nấu
nướng, chơi bài, đánh cờ ở nơi thuê phòng, rủ
nhau đi nhậu, quán cà phê, hát karaoke... Những
hoạt động này đã ảnh hưởng đến tình hình an ninh
trật tự chung nơi họ thuê nhà để trọ...
Thêm vào đó, do sống xa nhà thiếu thốn tình cảm,
tình trạng nam nữ cùng sống chung nhà trọ nên
quan hệ nam nữ đôi khi thiếu lành mạnh, phổ biến
là tình hình “sống chung, sống thử” tại các nhà trọ
quanh KCN như hiện nay. Trong đó, nổi lên sự
sa sút trong đời sống hôn nhân gia đình của lao
động nữ, họ ít có cơ hội giao lưu tìm hiểu để xây
dựng hạnh phúc gia đình, tệ nạn mại dâm và các
vấn đề xã hội khác phát sinh ngày càng nhiều tại
những KCN.
3. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NHÀ Ở CHO
CÔNG NHÂN TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Những bất cập trong việc cung ứng nhà ở cho
công nhân tại các KCN hiện nay có nhiều nguyên
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
127Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(64).2019
nhân, trong đó có sự bất cập trong chính sách nhà
nước, sự thiếu quan tâm của các tổ chức chính
trị - xã hội và doanh nghiệp. Để giải quyết được
vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN hiện nay
cần sự quan tâm, thực hiện tốt chức nĕng của các
cơ quan, cũng như sự phối hợp thực hiện giữa
Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và doanh
nghiệp, cụ thể:
Thứ nhất, cần giải tỏa những bất cập trong chính
sách của Nhà nước về nhà ở xã hội cho người lao
động trong KCN
Trong Chiến lược nhà ở giai đoạn 2011-2020 đã
khẳng định nhà ở xã hội phải được ưu tiên xây
dựng để những người thu nhập thấp có cơ hội
sở hữu nhà ở. Nghị định số 188/2013/NĐ-CP của
Chính phủ ban hành đã cụ thể hóa chiến lược này
hay Luật Nhà ở được Quốc hội khóa XIII thông
qua tại Kỳ họp thứ 8 cũng có một chương riêng
về phát triển nhà ở xã hội. Chính sách này cho
thấy sự tôn trọng quyền có chỗ ở của người dân
như Hiến pháp đã khẳng định, nó cũng phù hợp
với các quan điểm của Đảng về giải quyết mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã
hội. Các đối tượng khó khĕn về nhà ở, đặc biệt là
đối tượng được hỗ trợ như: hộ dân nghèo ở nông
thôn, người có công, lực lượng vũ trang, công
chức viên chức trong hệ thống chính trị, sinh viên,
công nhân ở khu công nghiệp đều là đối tượng
được thụ hưởng trong chính sách nhà ở xã hội.
Thứ hai, khuyến khích người dân xây dựng nhà ở
cho người lao động thuê
Trong điều kiện số lao động ngày càng tĕng,
doanh nghiệp, các ban quản lý khu công nghiệp,
các công ty xây dựng cơ sở hạ tầng tại các KCN
chưa đáp ứng được, việc khuyến khích người dân
xây dựng nhà ở cho người lao động KCN thuê
cũng là một giải pháp thực tiễn.
Để khuyến khích người dân tham gia xây dựng
nhà ở cho người lao động làm việc trong KCN
thuê, Nhà nước cần sớm ban hành các nghị định
và thông tư hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở (sửa
đổi) hỗ trợ về vay vốn (số vốn, lãi suất) tương tự
như doanh nghiệp. Hỗ trợ thủ tục pháp lý, tạo
điền kiện thuận tiện cho việc xây dựng nhà ở cho
người lao động