Hợp đồng là một thể loại văn bản có tính
pháp lí cao bởi tất cả các giao kết trong đó đều được
pháp luật bảo vệ. Do đó, khi tạo lập hợp đồng vấn đề
đầu tiên cần được quan tâm là ngôn ngữ. Có thể nói,
đây là yếu tố quan trọng nhất chi phối, tác động tới
chất lượng của văn bản hợp đồng, và nó cũng chính là
phương tiện duy nhất chuyển tải quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể tham gia kí kết hợp đồng. Để giúp cho
lưu học sinh có thể tạo lập được một kiểu văn bản có
tính pháp lí cao như hợp đồng, trong quá trình giảng
dạy, chúng tôi đã phối kết hợp nhiều phương pháp
nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là người học biết,
hiểu và thành thục tạo lập. Cụ thể, chúng tôi đã sử
dụng ba phương pháp chính sau: Phương pháp thứ
nhất là phương pháp rèn luyện theo mẫu. Đây là một
phương pháp không mới trong dạy học ngoại ngữ
nhưng lại rất cần thiết, đặc biệt với hợp đồng, một kiểu
văn bản có tính khuôn mẫu cao. Phương pháp thứ hai,
phương pháp thuyết giảng – truy vấn.Với phương pháp
này bên cạnh việc giảng viên phân tích các hiện tượng
ngôn ngữ đặc trưng trong văn bản nhằm giúp người
học hiểu được những vấn đề quan trọng còn có sự
tương tác giữa người dạy và người học thông qua các
câu hỏi giảng viên đặt ra cho sinh viên. Cách làm này
sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc phát triển khả năng
tư duy độc lập và gia tăng mức độ tiếp thu bài của sinh
viên. Phương pháp thứ ba, phương pháp phát hiện và
phân tích lỗi, để nó không trở thành rào cản trong hoạt
động giao tiếp. Những phương pháp giảng dạy này
được chúng tôi đưa ra dựa trên hai nguyên tắc: nguyên
tắc thứ nhất, bám sát đặc điểm văn bản dạy; nguyên
tắc thứ hai, phù hợp với trình độ của người học.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 113 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy cách tạo lập văn bản hợp đồng kinh tế cho lưu học sinh tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
461
DẠY CÁCH TẠO LẬP VĂN BẢN HỢP ĐỒNG KINH TẾ
CHO LƯU HỌC SINH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Trn Th Thùy Linh
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm t
t: Hợp đồng là một thể loại văn bản có tính
pháp lí cao bởi tất cả các giao kết trong đó đều được
pháp luật bảo vệ. Do đó, khi tạo lập hợp đồng vấn đề
đầu tiên cần được quan tâm là ngôn ngữ. Có thể nói,
đây là yếu tố quan trọng nhất chi phối, tác động tới
chất lượng của văn bản hợp đồng, và nó cũng chính là
phương tiện duy nhất chuyển tải quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể tham gia kí kết hợp đồng. Để giúp cho
lưu học sinh có thể tạo lập được một kiểu văn bản có
tính pháp lí cao như hợp đồng, trong quá trình giảng
dạy, chúng tôi đã phối kết hợp nhiều phương pháp
nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là người học biết,
hiểu và thành thục tạo lập. Cụ thể, chúng tôi đã sử
dụng ba phương pháp chính sau: Phương pháp thứ
nhất là phương pháp rèn luyện theo mẫu. Đây là một
phương pháp không mới trong dạy học ngoại ngữ
nhưng lại rất cần thiết, đặc biệt với hợp đồng, một kiểu
văn bản có tính khuôn mẫu cao. Phương pháp thứ hai,
phương pháp thuyết giảng – truy vấn.Với phương pháp
này bên cạnh việc giảng viên phân tích các hiện tượng
ngôn ngữ đặc trưng trong văn bản nhằm giúp người
học hiểu được những vấn đề quan trọng còn có sự
tương tác giữa người dạy và người học thông qua các
câu hỏi giảng viên đặt ra cho sinh viên. Cách làm này
sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc phát triển khả năng
tư duy độc lập và gia tăng mức độ tiếp thu bài của sinh
viên. Phương pháp thứ ba, phương pháp phát hiện và
phân tích lỗi, để nó không trở thành rào cản trong hoạt
động giao tiếp. Những phương pháp giảng dạy này
được chúng tôi đưa ra dựa trên hai nguyên tắc: nguyên
tắc thứ nhất, bám sát đặc điểm văn bản dạy; nguyên
tắc thứ hai, phù hợp với trình độ của người học.
Abstract: The contract is a kind of highly legal texts
(discourse) because in which all of the agreements are
protected by law. Therefore, when creating a contract,
the first issue to be considered is the language. We can
say this is the most important factor that controls and
has an effect on the quality of contract documents, and
it is also the only means to transfer the rights and
obligations of the participants in signing contracts. To
help foreign students create a type of legal documents
such as the contract, in the teaching process, we have
coordinated a variety of methods aimed at the ultimate
goal: the learners know, understand and master how to
create a discourse. In more detail, we use the following
three methods: The first method is a method of
practicing the sample. This is not a new method of
teaching a foreign language, but very necessary,
especially with contracts, a writing style demanding
highly fixed format. The second method is the lecturing
and interrogating method. When using this method, the
teacher not only analyzes the features of language in
the discourse, but also asks students questions.
Through these questions the teacher gives students
interactions between teacher and students to help them
understand the important issues. This approach will
bring efficiency in the development of independent
thinking skills and in improvement of ability to
understand lectures of all students. The third method is
the method of realizing and analyzing errors, so that
these errors do not become a barrier to communication
activities. When using these teaching methods we base
on two principles: (1) These methods should follow the
features of the discourse strictly; (2) and be relevant to
student’s level.
Trong khung chương trình đào tạo dành cho
lưu học sinh của Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân (ĐHKTQD) có ba học phần bắt buộc liên
quan đến tiếng Việt, trong đó có học phần Tiếng
Việt trong Kinh tế và Kinh doanh. Mục đích của
học phần này là giúp người học mở rộng vốn từ
trong lĩnh vực kinh tế, pháp luật, từ đó biết cách
tạo lập một số văn bản liên quan đến kinh tế đặc
biệt là biết cách soạn thảo văn bản hợp đồng
(VBHĐ) kinh tế. Đây là kiểu văn bản đơn giản
nhất về hình thức, bố cục bởi nó có tính khuôn
mẫu, cho nên khi học xong bắt buộc lưu học sinh
phải tạo lập được một hợp đồng theo mẫu.
Với thời lượng dành cho học phần Tiếng Việt
trong kinh tế và kinh doanh là 6 tín chỉ và được
chia đều cho các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, cho
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
462
nên để đạt được mục tiêu đặt ra đối với kĩ năng
viết trên chúng tôi đã phải sử dụng các phương
pháp khác nhau trong quá trình giảng dạy trên cơ
sở bám sát đặc điểm VBHĐ, cụ thể là ba phương
pháp sau: phương pháp rèn luyện theo mẫu,
phương pháp thuyết giảng - truy vấn và phương
pháp phát hiện - phân tích lỗi.
1. Phương pháp rèn luyện theo mẫu
Như chúng ta đã biết, phong cách viết nói
chung luôn có yêu cầu cao về độ chuẩn xác của
việc dùng từ, cấu tạo câu, liên kết văn bản. Mức
độ thành công của văn bản phụ thuộc vào khả
năng tư duy và khả năng diễn đạt của người viết.
Trong hợp đồng mặc dù từ ngữ được sử dụng
mang tính pháp lí cao bởi nó liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia kí kết, đến lợi
ích kinh tế của các chủ thể, song bù lại cấu trúc,
bố cục của từng loại hợp đồng lại rất giản đơn, nó
có khuôn mẫu rõ ràng. Theo đó, người viết cứ
theo mẫu sẵn có mà lấp đầy các thông tin cần thiết.
Điều này trở nên rất đơn giản đối với sinh viên
Việt Nam, nhưng với các lưu học sinh thì việc tạo
lập được một hợp đồng theo mẫu cũng không phải
là chuyện dễ. Chính vì vậy, để giúp người học có
được kĩ thuật viết hợp đồng, phương pháp đầu tiên
chúng tôi hướng tới đó là rèn luyện theo mẫu.
Tính khuôn mẫu là đặc điểm nổi bật của văn
bản hành chính nói chung, VBHĐ nói riêng. Phạm
Tất Thắng cho rằng: “Các văn bản hành chính
thường sử dụng đến các khuôn mẫu ngôn ngữ.
Những khuôn mẫu này được sử dụng trong các
văn bản hành chính thì được gọi là khuôn ngôn
ngữ hành chính. Đó là những phương tiện ngôn
ngữ được dựng sẵn và sử dụng nguyên khối để
tham gia vào việc tạo lập văn bản” [7; tr. 17]. Như
vậy về mặt hình thức các khuôn ngôn ngữ hành
chính có cấu trúc chặt chẽ như là những đơn vị có
sẵn. Tùy thuộc vào những nội dung khác nhau của
văn bản hành chính mà người ta lựa chọn khuôn
ngôn ngữ này hay khác để xây dựng văn bản.
Cũng theo Phạm Tất Thắng, khuôn ngôn ngữ tình
huống bao gồm khuôn tình huống (cụm từ và câu)
và khuôn cấu trúc.
Đồng quan điểm với Phạm Tất Thắng, Vương
Đình Quyền [6, tr. 213] cũng cho rằng không chỉ
các thành phần thuộc hình thức văn bản mà cả kết
cấu nội dung văn bản, lời văn và các từ ngữ thông
dụng đều phải theo khuôn mẫu nhất định.
Những biểu hiện của tính khuôn mẫu ở phương
diện cấu trúc của VBHĐ có thể là: Văn bản được
soạn theo thể thức quy định của Nhà nước; mỗi
nhóm VBHĐ có những yêu cầu chặt chẽ về các
điều khoản. Theo đó VBHĐ nào cũng phải có ba
nhóm điều khoản: điều khoản chủ yếu, điều khoản
thường lệ và điều khoản tùy nghi. Ngoài ra, tùy
thuộc vào loại hợp đồng mà quy định về điều
khoản sẽ được cụ thể hơn. Chẳng hạn, đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa thì bắt buộc phải đảm bảo
được các điều khoản chính sau:
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng và số
lượng hàng hóa
- Điều khoản về chất lượng, quy cách hàng hóa
- Điều khoản về bao bì, kí mã hàng hóa
- Điều khoản về giao nhận hàng
- Điều khoản về bảo hành hàng hóa và hướng
dẫn sử dụng
- Điều khoản về giá cả
- Điều khoản về thanh toán
Tính khuôn mẫu thể hiện ở phương diện từ
ngữ: có những từ ngữ và cấu trúc câu được lặp đi
lặp lại nhiều lần ở những vị trí nhất định trong văn
bản. Các khuôn từ ngữ có sẵn, có cấu trúc chặt chẽ
được sử dụng nguyên khối để tham gia vào việc
tạo lập văn bản được gọi là các khuôn sáo hành
chính. Những khuôn sáo này được sử dụng để đưa
ra các căn cứ pháp lí và thực tiễn ở phần mở đầu
và nội dung văn bản như căn cứ vào, hôm nay,
ngày/tháng/năm, tại Chúng tôi gồm các bên
dưới đây, Sau khi thỏa thuận, hai bên thống
nhất kí kết hợp đồng với những nội dung sau;
để kết thúc văn bản có: hai bên cam kết thực hiện
đúng các điều khoản đã ghi trong hợp đồng, Hợp
đồng này được lập thành bản có giá trị pháp lí
như nhau và có hiệu lực kể từ ngày kí.
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
463
Vì tính khuôn mẫu là đặc trưng của văn bản
hợp đồng nên khi dạy giáo viên phải dùng phương
pháp rèn luyện theo mẫu.
Dưới đây là ba bước trong phương pháp rèn
luyện theo mẫu:
Bước 1: Giáo viên cung cấp văn bản mẫu
Giáo viên cung cấp một loại VBHĐ kinh tế
nhất định làm mẫu cho người học, rồi yêu cầu họ
nghiên cứu văn bản và đưa ra những nhận xét ban
đầu. Ví dụ: Mẫu hợp mua bán hàng hóa.
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn người học phân
tích văn bản hợp đồng mẫu
Trọng tâm phân tích của giáo viên là các thành
phần thể thức trong mẫu, đặc biệt là phân tích bố
cục nội dung văn bản (phần mở đầu, phần nội
dung chính và kết luận), phân tích các khuôn sáo
trong mẫu.
Cái "khuôn" cấu trúc của một VBHĐ có thể
được thể hiện dưới hình thức sau:
Khi nhìn vào khuôn này hay bất kì một khuôn
văn bản nào, chúng ta cũng có thể thấy có ba khu
vực tách biệt rõ rệt với nhau và có tính ổn định, cố
định cao.
1) Mở đầu hợp đồng, có nội dung sau: quốc hiệu,
tên gọi hợp đồng, số và kí hiệu hợp đồng, những
căn cứ xác lập hợp đồng, thời gian và địa điểm kí
hợp đồng và các thông tin về chủ thể hợp đồng.
2) Phần nội dung hợp đồng: bao gồm các điều
khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ và điều
khoản tùy nghi.
3) Phần kí kết hợp đồng gồm có: số lượng bản
hợp đồng cần kí và đại diện các bên kí.
Mô hình hoá các yếu tố trên như sau:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TÊN HỢP ĐỒNG
(Số và kí hiệu hợp đồng:.)
Căn cứ kí kết hợp đồng:
Thời gian và địa điểm kí hợp đồng:..
Thông tin chủ thế kí kết hợp đồng:..
Bên A:
Bên B:
Sau khi thỏa thuận, hai bên thống nhất kí kết hợp đồng với những nội dung sau:
CÁC ĐIỀU KHOẢN KÍ KẾT HỢP ĐỒNG
Điều 1:
MỞ ĐẦU HỢP ĐỒNG
NỘI DUNG HỢP ĐỒNG
PHẦN KÍ KẾT HỢP ĐỒNG
1
2
3
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
464
Điều 2: ..
Hai bên cam kết thực hiện đúng các điều khoản đã ghi trong hợp đồng. Hợp đồng này được lập
thành.. bản có giá trị pháp lí như nhau và có hiệu lực kể từ ngày kí.
Đại diện bên A kí
Chức vụ
Họ tên người kí
Đại diện bên B kí
Chức vụ
Họ tên người kí
Tính khuôn mẫu còn được thể hiện ở các mức
độ, cấp độ ngôn ngữ khác nhau:
a) Sử dụng lặp lại các thuật ngữ, từ ngữ thuộc
lớp từ hành chính và/hoặc thuộc đối tượng kí kết
hợp đồng
b) Sử dụng lặp đi lặp lại một số kiểu cấu trúc
ngữ pháp có mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các vế là
giả thiết – kết luận như: Trong trường hợp.
thì; Nếu thì
c) Ngôn ngữ sử dụng trong loại văn bản này
phải đảm bảo tính đơn trị về ngữ nghĩa. Do vậy,
ngôn ngữ phải thể hiện sao cho mọi người đều có
thể hiểu một cách dễ dàng, chính xác, đúng với
nội dung mà VBHĐ muốn truyền đạt.
Bước 3: Giáo viên yêu cầu người học mô
phỏng để soạn thảo văn bản hợp đồng
Bước 4: Giáo viên kiểm tra đánh giá, hướng
dẫn sinh viên sửa lỗi về thể thức, nội dung, cấu
trúc của VBHĐ.
2. Phương pháp thuyết giảng – truy vấn
Để người học hiểu rồi tạo lập được VBHĐ thì
hoạt động đầu tiên người dạy tiến hành đó là
thuyết giảng. Ngày nay, công nghệ thông tin đã
phát triển như vũ bão và cho ra đời rất nhiều các
sản phẩm phục vụ đắc lực cho việc giảng dạy của
giảng viên. Tuy nhiên, dù cho hiện đại đến mức
nào thì các sản phẩm này cũng chỉ là công cụ hỗ
trợ cho phương pháp giảng dạy truyền thống –
phương pháp thuyết giảng, một phương pháp có vị
trí then chốt và đóng vai trò chủ lực.
Song, nếu chỉ thuyết giảng một chiều, nghĩa là
đơn thuần truyền đạt kiến thức từ người dạy sang
người học, thì đó là phương pháp giảng dạy thụ
động. Nhưng nếu thuyết giảng theo lối tương tác,
đặt vấn đề cho người học suy nghĩ và lôi cuốn
người học cùng giải quyết vấn đề với giảng viên
thì đó lại là phương pháp giảng dạy tích cực. Như
vậy, ở đây thuyết giảng cần phải kết hợp với truy
vấn thì mới mang lại hiệu quả cao cho người học.
Truy vấn là việc giảng viên đặt câu hỏi để sinh
viên tự trả lời và làm sáng tỏ nội dung vấn đề.
Phương pháp này được áp dụng có hiệu quả đối
với những nội dung mà người học đã ít nhiều biết
đến hoặc có thể dễ dàng tự nhận thức, tự lí giải khi
được đặt vấn đề. Hệ thống câu hỏi dùng trong truy
vấn cần phải hướng người học liệt kê được nội
dung chính của vấn đề và đưa ra được cách giải
quyết vấn đề đặt ra trong từng nội dung. Việc đặt
câu hỏi cũng phải hết sức linh hoạt, phụ thuộc rất
lớn vào diễn tiến các câu trả lời của sinh viên. Nó
đòi hỏi người dạy phải biết cách dẫn dắt, gợi ý,
hướng dẫn người học hướng vào mục tiêu chính
của bài học. Lợi ích của việc giảng viên truy vấn
người học là kích thích sự động não liên tục, rèn
luyện tư duy lôgic cũng như khả năng độc lập giải
quyết vấn đề.
Nói tóm lại, theo chúng tôi, có hai yếu tố quyết
định sự thành công của phương pháp thuyết giảng
– truy vấn:
Một là về phương pháp thuyết giảng, trước hết,
lời giảng phải gãy gọn, súc tích, chặt chẽ. Sau đó,
tốt nhất và hiệu quả nhất là trình bày theo lối
tương tác, nghĩa là liên tục trao đổi với sinh viên
trong quá trình thuyết giảng.
Khi tương tác, kinh nghiệm cho thấy là giảng
viên nên tìm cách đặt vấn đề để sinh viên suy nghĩ
trước khi giảng viên nói ra điều muốn nói, không
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
465
nên nói trước kết quả mà hãy dẫn dắt sinh viên
cùng tư duy để đi đến kết quả. Cách làm này sẽ
mang lại hiệu quả cao trong việc phát triển khả
năng tư duy độc lập và gia tăng mức độ tiếp thu
bài của sinh viên. Khi sinh viên được yêu cầu
tham gia suy nghĩ thay vì thụ động tiếp nhận
thông tin thì họ sẽ tập trung hơn, có thể tự kiểm
tra sự hiểu biết của bản thân họ, đồng thời được
gợi ý về việc chọn lựa nội dung cần nhấn mạnh.
Hai là phải tổ chức các hoạt động đan xen
trong quá trình thuyết giảng. Hoạt động có thể là
đặt vấn đề để sinh viên suy nghĩ và phát biểu,
chứng minh một vấn đề, thảo luận từng đôi, thảo
luận nhóm, v.v.. Việc này tưởng chừng như hao
phí thời gian nhưng thực ra cái lợi thu được sẽ lớn
hơn nhiều so với trường hợp dành toàn bộ lượng
thời gian đó cho giảng viên nói.
Với VBHĐ, khi tiến hành thuyết giảng, giảng
viên nên chia nội dung theo vấn đề nhằm giúp
người học dễ nắm bắt. Chúng ta có thể có một số
nhóm vấn đề trong VBHĐ như:
- Vấn đề về căn cứ kí kết hợp đồng
- Vần đề về chủ thể tham gia kí kết
- Vấn đề về điều khoản chủ yếu
- Vấn đề về điều khoản thường lệ
- Vấn đề về điều khoản tùy nghi
Sau đó, giảng viên giải thích lí do tồn tại của
từng nhóm vấn đề, chẳng hạn “Nhóm điều khoản
chủ yếu”, đây là những điều khoản bắt buộc để
hình thành nên chủng loại hợp đồng cụ thể, nếu
thiếu một trong những điều khoản chủ yếu này sẽ
không hình thành một hợp đồng. Ví dụ, trong hợp
đồng mua bán hàng hóa thì các điều khoản chủ
yếu là số lượng hàng hóa, chất lượng quy cách
hàng hóa, giá cả, điều kiện giao nhận hàng và
phương thức thanh toán.
Bên cạnh đó, giảng viên cũng có thể thuyết
giảng theo từng bình diện ngôn ngữ, cụ thể là 3
bình diện chính: bình diện ngữ âm, bình diện từ
vựng-ngữ nghĩa và bình diện ngữ pháp. Ở bình
diện ngữ âm, giảng viên giúp người học hệ thống
lại quy tắc chính tả của tiếng Việt với trọng tâm là
quy tắc viết hoa tên người, tên địa danh, tên tổ
chức trong VBHĐ Tiếp đó, ở bình diện từ
vựng-ngữ nghĩa, giảng viên giải thích nghĩa, cách
sử dụng các thuật ngữ hoặc từ, cụm từ thường
xuyên xuất hiện trong VBHĐ như trách nhiệm,
nghĩa vụ, thủ tục hợp lệ, thủ tục hợp pháp, giá trị
pháp lí, thương lượng, hiệu lực... Đối với bình
diện ngữ pháp, trước hết, người dạy yêu cầu người
học thống kê những kiểu câu có tần số xuất hiện
lớn trong VBHĐ và thử lí giải nguyên nhân tồn tại
của những kiểu câu đó. Tiếp đó, nhiệm vụ của
giảng viên là đính chính và bổ sung kiến thức cần
thiết giúp người học hiểu chính xác, rõ ràng và cụ
thể vấn đề. Chẳng hạn, khi người học đã phát hiện
ra kiểu câu giả thiết – kết quả thường xuyên xuất
hiện trong VBHĐ, với biểu hiện cụ thể là cặp kết
từ “Nếu thì” nhưng chưa giải thích được lí
do thì lúc này, giảng viên có thể nêu thêm một số
biểu hiện khác của kiểu câu giả thiết - kết quả
trong VBHĐ như: (Trong) trường hợp thì ;
Khi thì
- Nếu bên B không đến nhận hàng đúng lịch thì
phải chịu chi phí lưu kho là đồng/ngày.
- Trường hợp công trình chưa đủ điều kiện để
nghiệm thu, bàn giao thì các bên xác định lí do và
nêu cụ thể những công việc mà Nhà thầu phải làm
để hoàn thành công trình.
- Khi tiến độ đã bị chậm hơn so với tiến độ thi
công như các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng
của công việc đó mà không phải do những nguyên
nhân đã nêu trên, khi đó Chủ đầu tư yêu cầu Nhà
thầu trình một bản tiến độ thi công được sửa đổi
để thực hiện tiến độ trong thời gian yêu cầu.
Ngoài ra, để người học hiểu sâu và nhớ lâu vấn
đề, giảng viên cần lí giải nguyên nhân của việc
kiểu câu giả thiết-kết quả xuất hiện nhiều trong
VBHĐ. Với kiểu câu này, người viết không chỉ
nêu lên những tình tiết hay điều kiện dự kiến có
thể xảy ra trong cuộc sống mà con người gặp phải
bằng vế “Nếu X”, mà còn có thể nêu rõ cách xử sự
phải theo khi gặp trường hợp nêu ở phần giả định
hoặc những biện pháp tác động của Nhà nước đối
với chủ thể nào không thực hiện đúng các quy
định của phần quy phạm pháp luật. Điều này sẽ
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
466
giúp các chủ thể kí kết lường trước được các vấn
đề phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
3. Phương pháp phát hiện và phân tích lỗi
Theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, lỗi
là một hiện tượng đương nhiên và không hề tiêu
cực trong quá trình học ngoại ngữ. Tuy nhiên, vì
lỗi là sự vi phạm chuẩn mực về sử dụng ngôn ngữ,
sự vi phạm này có thể dẫn đến hiểu nhầm hoặc
không thể hiểu được thông tin và có thể phá vỡ
giao tiếp nên chúng vẫn rất cần được khắc phục để
không trở thành rào cản trong hoạt động giao tiếp.
Với phương pháp này, cả người dạy và người học
cùng tích cực tham gia vào việc phát hiện lỗi, nêu
nguyên nhân và hướng sửa.
Thực ra, khi trình bày vấn đề dưới dạng viết
người học đã có thời gian lựa chọn từ, cấu trúc
câu và sắp xếp các ý hợp lí. Vì vậy, việc mắc lỗi
trong văn viết ít mang yếu tố khách quan và yếu tố
tâm lí mà thể hiện rõ năng lực và trình độ của
người viết. Cho nên, vai trò của người dạy là bên
cạnh việc chữa lỗi còn cần giải thích lỗi, tìm
nguyên nhân mắc lỗi và chữa lỗi.
Người dạy có thể tiến hành các bước sau khi sử
dụng phương pháp phát hiện và phân tích lỗi trong
việc phát triển kĩ năng viết cho lưu học sinh.
Bước 1: Giáo viên thống kê và phân loại lỗi từ
các VBHĐ do lưu học sinh tạo lập. Đó có thể là
lỗi chính tả, lỗi từ vựng, lỗi ngữ pháp, lỗi bố cục,
lỗi diễn đạt
Bước 2: Giáo viên tiến hành phân tích lỗi và
xác định nguyên nhân gây lỗi. Đây là bước rất
quan trọng vì có xác định đúng nguyên nhân
người dạy mới có phương hướng khắc phục triệt
để các lỗi.
Bước 3: Giảng viên yêu cầu người học tự sửa
lỗi cho nhau. Đối với lỗi diễn đạt dễ mắc – khó
sửa, người dạy nên hướng dẫn cho người học phát
hiện và chữa lỗi bằng cách tìm ra những cấu trúc
đúng, các mẫu lời nói chuẩn mực.
Bước 4: Giáo viên đánh giá kết quả sửa lỗi của
người học và đưa ra kết luận cuối cùng về phương
án sửa lỗi.
Ở đây cũng cần lưu ý là các hoạt động sửa lỗi
cần được thay đổi cho phong phú và gây hứng thú
cho người