Chèo truyền thống hay còn gọi là Chèo cổ hoặc Chèo sân đình là một hiện
tượng sân khấu dân gian đặc sắc. Đó là nghệ thuật hết sức đậm đà bản sắc dân tộc, là
tiếng nói tâm hồn dân tộc, được nhân dân nhiều thế hệ từ bao đời sáng tạo, chọn lọc, gọt
giũa, giữ gìn, ấp ủ trong các làng quê Việt. Từ thời trung đại, các nhà văn hóa, các trí
thức phong kiến ở những thời kỳ lịch sử khác nhau đã có những ý kiến khảo tả sơ lược,
bắt đầu có lẽ từ năm 1501 với Hỷ phường phả lục của Lương Thế Vinh. Đến thời đại
chúng ta, các nhà nghiên cứu Chèo thế hệ đầu tiên của xã hội mới cũng đều nhất trí cho
rằng: Cho tới nửa cuối thế kỷ XX, nếu không có nghệ thuật chèo thì không thể hình dung
nổi đời sống văn hóa của nông thôn Việt Nam trước nay [66, tr. 126]. Đã có một thời,
Hội Chèo làng quê Việt ở đồng bằng Bắc Bộ kéo dài hàng tuần lễ:
Hội chèo làng Đặng đi ngang xóm
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay.
(Nguyễn Bính)
Những "Thôn Đoài" và "Làng Đặng" mở Hội Chèo, và mặc dầu còn lâu có thể
mới đến một hội như thế (Xuân Thu nhị kỳ - Đ.T.T) nhưng các hồi ức làng Chèo vẫn kể
lại rằng trong mỗi gia đình nông dân thuở ấy đều đã có sự chuẩn bị tham gia kỳ Hội với
không khí hội hè ngang trong chính ngôi nhà mình với những vai chèo yêu thích. Vì thế,
có thể khẳng định dứt khoát: Chèo là một thể tài sân khấu dân gian. Chèo đã được đưa
vào chương trình giảng dạy văn học dân gian (VHDG) ở trường phổ thông. Chèo còn
được biên soạn trong giáo trình Đại học ngữ văn với tư cách một thể tài chủ thuộc loại
hình nghệ thuật trình diễn dân gian, hợp thành chỉnh thể VHDG Việt Nam. Tuy nhiên,
nhìn lại quá trình nghiên cứu nghệ thuật Chèo cho đến nay, chúng tôi cho rằng giới học
thuật chuyên cần và năng nổ nghiên cứu, sưu tầm, gìn giữ, nâng cao và phổ biến, quảng
bá Chèo mới thật sự khởi đầu một thế kỷ (thế kỷ XX). Từ cái nôi chèo là những làng
chèo Bắc, nghệ thuật Chèo truyền thống mở rộng địa bàn từ "kẻ quê" lên "kẻ chợ" để
được cải lương và chuyển vào Nam theo những cuộc di dân... trải qua những bước thăng
trầm biến đổi hợp quy luật của đời sống văn hóa đất nước và dân tộc. Trong đó, hiện nay
đang có một vấn đề nóng hổi đã đặt ra đối với chúng ta: Xu hướng văn minh nhất thể hóa
đang diễn ra khốc liệt trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội hiện đại của cái gọi là "làng toàn
cầu", nếu văn hóa cũng như thế thì vấn đề bản sắc dân tộc sẽ đứng trước nguy cơ bị mai
một. Khoa học văn hóa hiện đại ở mọi quốc gia dân tộc, vì thế, đều đặt ra vấn đề bảo vệ
những giá trị đó. Bởi vì "văn hóa là nền tảng sức mạnh tinh thần của một dân tộc" và
"đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mất tất cả" (Theo tinh thần lời văn nghị quyết V
Trung ương Đảng khóa VIII). Đó là nói chung. Đi vào từng lĩnh vực cụ thể, trong đó có
vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc vào đời sống hiện nay qua các hoạt động sân
khấu Chèo, chúng ta thấy còn nhiều khó khăn phức tạp. Chèo truyền thống trên sân khấu
hộp dần dà thưa vắng khán giả. Chèo mới (kịch chèo) ăn khách thay hình đổi dạng bỗng
dưng trở thành một thứ náo kịch - chèo thông tục, nên chăng (?!). Những vấn đề đó
không chỉ đòi hỏi các nhà nghiên cứu sân khấu, các nghệ sĩ kịch hát dân tộc, các đạo diễn
chèo nổi tiếng đầy tâm huyết và tài năng phải giải quyết, mà còn đặt ra đối với giới
nghiên cứu và giảng dạy VHDG trong nhà trường - một môi trường giáo dục điển quy từ
thế hệ này chuyển giao sang thế hệ khác. Đặc biệt ở Việt Nam, trong thập kỷ cuối của thế
kỷ XX, vấn đề giáo dục truyền thống từ trong di sản (trong đó chèo là một loại nghệ thuật
đặc sắc) đã trở thành việc làm cấp bách. Trong khi đó, công bằng mà nhận xét thì kể từ
sau hòa bình lập lại (1954) đến nay, nhìn lại "Tổng luận nghệ thuật Chèo nữa sau thế kỷ
XX" [16]) chúng ta thấy các thành tựu đích thực nghiên cứu về Chèo ở cả hai miền Nam,
Bắc cũng chưa phải là nhiều, và chủ yếu vẫn là các nghiên cứu của các chuyên gia về sân
khấu học chuyên ngành kịch hát dân tộc hoặc được các học giả tìm tòi khảo cứu dưới góc
độ văn hóa tổng hợp. Trong nhà trường, các giáo trình và bài giảng về Chèo cũng mới chỉ
được biên soạn dưới góc độ khái lược, dựa trên cơ sở thành tựu của các nghiên cứu về
Chèo truyền thống đã nói ở trên. Có thể nói, dưới góc độ khoa học VHDG, việc tiếp cận
nghiên cứu Chèo truyền thống hiện nay còn ít thành tựu
29 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2052 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát chỉnh thể nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Khảo sát chỉnh thể nghệ thuật trào
phúng trong Chèo truyền thống
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1. Chèo truyền thống hay còn gọi là Chèo cổ hoặc Chèo sân đình là một hiện
tượng sân khấu dân gian đặc sắc. Đó là nghệ thuật hết sức đậm đà bản sắc dân tộc, là
tiếng nói tâm hồn dân tộc, được nhân dân nhiều thế hệ từ bao đời sáng tạo, chọn lọc, gọt
giũa, giữ gìn, ấp ủ trong các làng quê Việt. Từ thời trung đại, các nhà văn hóa, các trí
thức phong kiến ở những thời kỳ lịch sử khác nhau đã có những ý kiến khảo tả sơ lược,
bắt đầu có lẽ từ năm 1501 với Hỷ phường phả lục của Lương Thế Vinh. Đến thời đại
chúng ta, các nhà nghiên cứu Chèo thế hệ đầu tiên của xã hội mới cũng đều nhất trí cho
rằng: Cho tới nửa cuối thế kỷ XX, nếu không có nghệ thuật chèo thì không thể hình dung
nổi đời sống văn hóa của nông thôn Việt Nam trước nay [66, tr. 126]. Đã có một thời,
Hội Chèo làng quê Việt ở đồng bằng Bắc Bộ kéo dài hàng tuần lễ:
Hội chèo làng Đặng đi ngang xóm
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay.
(Nguyễn Bính)
Những "Thôn Đoài" và "Làng Đặng" mở Hội Chèo, và mặc dầu còn lâu có thể
mới đến một hội như thế (Xuân Thu nhị kỳ - Đ.T.T) nhưng các hồi ức làng Chèo vẫn kể
lại rằng trong mỗi gia đình nông dân thuở ấy đều đã có sự chuẩn bị tham gia kỳ Hội với
không khí hội hè ngang trong chính ngôi nhà mình với những vai chèo yêu thích. Vì thế,
có thể khẳng định dứt khoát: Chèo là một thể tài sân khấu dân gian. Chèo đã được đưa
vào chương trình giảng dạy văn học dân gian (VHDG) ở trường phổ thông. Chèo còn
được biên soạn trong giáo trình Đại học ngữ văn với tư cách một thể tài chủ thuộc loại
hình nghệ thuật trình diễn dân gian, hợp thành chỉnh thể VHDG Việt Nam. Tuy nhiên,
nhìn lại quá trình nghiên cứu nghệ thuật Chèo cho đến nay, chúng tôi cho rằng giới học
thuật chuyên cần và năng nổ nghiên cứu, sưu tầm, gìn giữ, nâng cao và phổ biến, quảng
bá Chèo mới thật sự khởi đầu một thế kỷ (thế kỷ XX). Từ cái nôi chèo là những làng
chèo Bắc, nghệ thuật Chèo truyền thống mở rộng địa bàn từ "kẻ quê" lên "kẻ chợ" để
được cải lương và chuyển vào Nam theo những cuộc di dân... trải qua những bước thăng
trầm biến đổi hợp quy luật của đời sống văn hóa đất nước và dân tộc. Trong đó, hiện nay
đang có một vấn đề nóng hổi đã đặt ra đối với chúng ta: Xu hướng văn minh nhất thể hóa
đang diễn ra khốc liệt trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội hiện đại của cái gọi là "làng toàn
cầu", nếu văn hóa cũng như thế thì vấn đề bản sắc dân tộc sẽ đứng trước nguy cơ bị mai
một. Khoa học văn hóa hiện đại ở mọi quốc gia dân tộc, vì thế, đều đặt ra vấn đề bảo vệ
những giá trị đó. Bởi vì "văn hóa là nền tảng sức mạnh tinh thần của một dân tộc" và
"đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mất tất cả" (Theo tinh thần lời văn nghị quyết V
Trung ương Đảng khóa VIII). Đó là nói chung. Đi vào từng lĩnh vực cụ thể, trong đó có
vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc vào đời sống hiện nay qua các hoạt động sân
khấu Chèo, chúng ta thấy còn nhiều khó khăn phức tạp. Chèo truyền thống trên sân khấu
hộp dần dà thưa vắng khán giả. Chèo mới (kịch chèo) ăn khách thay hình đổi dạng bỗng
dưng trở thành một thứ náo kịch - chèo thông tục, nên chăng (?!). Những vấn đề đó
không chỉ đòi hỏi các nhà nghiên cứu sân khấu, các nghệ sĩ kịch hát dân tộc, các đạo diễn
chèo nổi tiếng đầy tâm huyết và tài năng phải giải quyết, mà còn đặt ra đối với giới
nghiên cứu và giảng dạy VHDG trong nhà trường - một môi trường giáo dục điển quy từ
thế hệ này chuyển giao sang thế hệ khác. Đặc biệt ở Việt Nam, trong thập kỷ cuối của thế
kỷ XX, vấn đề giáo dục truyền thống từ trong di sản (trong đó chèo là một loại nghệ thuật
đặc sắc) đã trở thành việc làm cấp bách. Trong khi đó, công bằng mà nhận xét thì kể từ
sau hòa bình lập lại (1954) đến nay, nhìn lại "Tổng luận nghệ thuật Chèo nữa sau thế kỷ
XX" [16]) chúng ta thấy các thành tựu đích thực nghiên cứu về Chèo ở cả hai miền Nam,
Bắc cũng chưa phải là nhiều, và chủ yếu vẫn là các nghiên cứu của các chuyên gia về sân
khấu học chuyên ngành kịch hát dân tộc hoặc được các học giả tìm tòi khảo cứu dưới góc
độ văn hóa tổng hợp. Trong nhà trường, các giáo trình và bài giảng về Chèo cũng mới chỉ
được biên soạn dưới góc độ khái lược, dựa trên cơ sở thành tựu của các nghiên cứu về
Chèo truyền thống đã nói ở trên. Có thể nói, dưới góc độ khoa học VHDG, việc tiếp cận
nghiên cứu Chèo truyền thống hiện nay còn ít thành tựu.
2. Chèo truyền thống (như trên đã khẳng định) là một thể tài chủ đạo trong Chỉnh
thể nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chúng ta biết rằng sân khấu nói chung là một
loại nghệ thuật tổng hợp. Với sân khấu dân gian nguyên hợp, tính tổng hợp càng thật sự
là một đặc điểm trội, bởi đặc trưng phôn-clo, trong đó có Chèo. Hơn nữa, Chèo truyền
thống còn là một thể tài nằm trong loại hình cấu trúc mang tính chất tổng thể của kịch hát
phương Đông. Khác với các thể tài sân khấu kịch hát phương Tây (Ví dụ kịch Hề, kịch
Thánh của ý, Tây Ban Nha - Đ.T.T), trong quá trình phát triển của Chèo không có sự
phân biệt đến cùng giữa cái bi với cái hài, cái cao cả với cái tầm thường để rồi sau đó
tách biệt ra thành từng thể tài riêng như: bi kịch, hài kịch và chính kịch. Cấu trúc Chèo
truyền thống tổ hợp cái hài trong cái bi như những cặp tương giao trong quá trình ghim
ghép trò dựa trên thân trò, tạo ra một phức thể đa dạng hợp thành chất Chèo trên cả hai
phương diện nội dung xã hội và hình thức nghệ thuật. Khác với sân khấu kịch phương
Tây, ở đó có kịch nói với ngôn ngữ đối thoại đời thường, có múa giành cho kịch múa, có
âm nhạc và lời ca giành cho nhạc kịch, có động tác hình thể giành cho kịch câm..., sân
khấu Chèo truyền thống là sự tổng hòa văn chèo với múa chèo và nhạc chèo. Trong đó,
có yếu tố hòa hợp, có yếu tố tương phản, có múa trữ tình đan xen với múa hề, có nhạc làn
thảm và cũng có nhạc hề. Nhiều nhà sân khấu học đều đã nhất trí cho rằng: nên gọi Chèo
truyền thống là thể tài ca kịch bi hài dân tộc. Tuy vậy, cho đến nay vấn đề phân loại mỹ
học về thể loại kịch của Chèo vẫn chưa có người đi sâu nghiên cứu [45, tr. 268]. Phần lớn
các công trình nghiên cứu Chèo truyền thống trước nay cũng đều là những tác phẩm khảo
sát và đánh giá tổng hợp, hoặc chú trọng cái nhìn lịch sử, hoặc thiên về cái bi trên
phương diện đạo đức, hoặc tiếp cận cái hài từ góc độ thi pháp kịch theo hướng chọn lọc -
chỉ đánh giá thẩm mỹ những mảnh trò hay. Thực trạng là cho đến nay, trong khoảng trên
dưới ba mươi công trình chuyên khảo về Chèo nói chung, chỉ thấy có vài ba tác phẩm
bàn về nghệ thuật trào phúng trong Chèo ở góc độ khái lược [37] hoặc dẫn luận [5]...
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, đến nay vẫn chưa có một công trình chuyên khảo về vấn
đề này ở cấp độ chỉnh thể.
3. Khoa học VHDG Việt Nam quan niệm, cùng với Rối nước, Tuồng đồ, Chèo
truyền thống là một thể tài thuộc loại hình sân khấu văn học diễn trò [14, tr. 264]. Nhìn từ
góc độ khoa học ngữ văn dân gian, cho thấy đây là một loại hình tổng hợp của nghệ thuật
ngôn từ và phương thức diễn xướng dân gian [45, tr. 268]. Trong đó, dù ở dạng trò cương
hay trò tích thì trong Chèo vẫn chứa đựng thành tố quyết định là nghệ thuật ngôn từ [16,
tr. 224]. Các nhà nghiên cứu sân khấu trong khi không chú trọng khảo cứu văn chèo một
cách chuyên biệt, vẫn cho rằng: Nhạc Chèo tinh hoa nhưng là sự tinh hoa của một chủng
loại gọi là âm nhạc kể chuyện gắn liền với ngôn ngữ tự sự Chèo. Hơn nữa, một trong
những yêu cầu và là yêu cầu hết sức cơ bản đối với nghệ thuật hát trong Chèo là phải tròn
vành rõ chữ, nên nhiều khi nhạc chèo phải chịu sự chế định của lời hát [35, tr. 160]. Mặt
khác, múa chèo có hình thức điêu luyện nhưng cũng không tồn tại độc lập như múa nghệ
thuật nói chung (như múa ba-lê). Và cũng theo các nhà nghiên cứu sân khấu thì chức
năng chính của múa Chèo vẫn là để minh họa cho lời ca, bên cạnh những chức năng hỗ
trợ thể hiện nội tâm và ngoại hình nhân vật [35, tr. 195]. Khi đề cập đến múa, các cụ nghệ
nhân xưa có ý kiến cho rằng: Tình cảm trong lòng mà dạt dào thì sẽ nảy sinh thơ, thơ
chưa đủ nói hết thì cần nhạc, nhạc cũng chưa đủ thể hiện thì phải dùng điệu bộ. Không
phải lúc nào cũng nói đến điệu bộ mà chỉ dùng nó khi thật cần. Theo nhà nghiên cứu chèo
Trần Việt Ngữ thì có lẽ chèo cũng vậy [35, tr. 194]. Do đó, đến nay cũng có những điệu
múa chèo chưa cố định, chưa thành trình thức để ứng diễn theo lời hát. Nói lên điều trên,
chúng tôi chỉ có ý nhấn mạnh đến sự cần thiết phải nghiên cứu văn chèo, trước là phần
nghệ thuật ngữ văn dân gian - trừ nghệ thuật ngôn từ thành tạo thân trò (cốt truyện) đến
bản trò (kịch bản) được thể hiện ra thành những đài từ (lời nói, hát, ngâm, kể trên sàn
diễn). Trong đó có đối tượng nghệ thuật trò nhời" và nghệ thuật "trò diễn" - những yếu tố
cấu thành nghệ thuật trào phúng dân gian trong chèo truyền thống. Bởi vì việc nghiên
cứu một cách chỉnh thể một trong những vấn đề trên sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với vấn
đề dạy và học sân khấu dân gian trong nhà trường hiện nay.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài "Khảo sát chỉnh thể nghệ thuật trào
phúng trong Chèo truyền thống" để nghiên cứu dưới góc độ khoa học VHDG.
2. Lịch sử vấn đề
Có thể nói nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống đã có mầm mống ngay
từ khi hình thành Chèo sơ khai với sự có mặt năm vai: Hề, lão, mụ, thằng, ả. Cũng từ đó,
yếu tố Hề đã ám ảnh đặc biệt tất cả các nhà nghiên cứu, học giả. Do đó, ở một vài
phương diện cụ thể của nó, chúng ta thấy từ các học giả văn hóa Việt Nam trong lịch sử
như Lương Thế Vinh, Phạm Đình Hổ, Lê Quý Đôn thời trung đại đến các nhà sân khấu
học, sử học, văn học... Việt Nam đương đại đều đã ít nhiều quan tâm và nêu lên được
những ý kiến rất quý báu, khi khảo tả, khi thẩm định, bình giá, phê bình và quảng bá [51,
tr. 191]. Tuy vậy, từ điểm khởi đầu Chèo hài hước bằng các trò nhại thời Đinh, Tiền Lê,
Lý... đến trào phúng Chèo đích thực, nó đã trải qua mấy thế kỷ. Như chúng ta đã biết,
phải đến thế kỷ XV, Chèo sân đình mới được hoàn thiện như một thể tài sân khấu văn
học diễn trò. Và nếu xét riêng về sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật trào phúng
trong Chèo truyền thống (Chèo sân đình, chèo cổ) thì phải đến Chèo thế kỷ XVII, XVIII.
Mặt khác, nếu có được văn bản Chèo (bản trò, kịch bản được ghi chép từ truyền miệng
đến thành văn dân gian) thì phải đến thế kỷ XX, đặc biệt là từ sau hòa bình lập lại (1954)
đến nay. Do đó, trong giới thuyết lịch sử vấn đề của luận văn, chúng tôi chú trọng đặc
biệt đến các kết quả nghiên cứu nghệ thuật trào phúng dân gian nói chung và nghệ thuật
trào phúng Chèo truyền thống từ nửa cuối thế kỷ XX.
Trong sự hiểu biết của chúng tôi, trong khoảng thời gian này đã có trên hai mươi
công trình khảo cứu tổng thể. Về nghệ thuật sân khấu lấy kịch hát dân tộc làm trọng tâm
luận giải. Tuy nhiên, nếu chỉ thống kê các công trình đã đề cập đến vài ba khía cạnh có
liên quan trực tiếp đến những vấn đề theo định hướng của luận văn này thì chúng tôi thấy
có 17công trình, trong đó có 3 công trình tập thể. Các công trình chuyên khảo về nghệ
thuật trào phúng dân gian từ Chèo truyền thống đến Chèo mới ở mức độ bước đầu tìm
hiểu hoặc dẫn luận, chú thích mới có 2 tác phẩm. Các công trình sưu tầm, biên soạn kịch
bản Chèo truyền thống cũng có số lượng là 2 tác phẩm của cùng một tác giả. Những công
trình trên đều được lưu trữ trong thư viện nhà hát Chèo Việt Nam và Trường Đại học sân
khấu điện ảnh. Theo thứ tự thời gian công bố, đó là các tác phẩm:
Tìm hiểu phương pháp viết Chèo, Hà Văn Cầu, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà
Nội, 1964.
Bước đầu tìm hiểu sân khấu chèo, Trần Việt Ngữ - Hoàng Kiều, Nxb Văn hóa
nghệ thuật, Hà Nội, 1964.
Quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật chèo, Hà Văn Cầu, Tài liệu lưu
hành nội bộ giảng dạy tại Trường Sân khấu từ năm 1965.
Bước đầu tìm hiểu tiếng cười trong chèo cổ, Trần Việt Ngữ - Hoàng Kiều, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967.
Hề chèo chọn lọc, Hà Văn Cầu (Sưu tầm, dẫn luận, chú thích), Nxb Văn hóa,
Hà Nội, 1967.
Tìm hiểu sân khấu chèo, Vũ Khắc Khoan, Nxb LửaThiêng, Sài Gòn, 1974.
Mấy vấn đề trong kịch bản chèo, Hà Văn Cầu, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1977.
Tuyển tập chèo cổ, Hà Văn Cầu, Nxb Văn hóa, H.1976, Nxb Sân khấu tái bản,
Lộng Chương giới thiệu, H, 1979.
Lịch sử sân khấu Việt Nam, Tập I, Nhiều tác giả, Nxb , H.1984.
Nghệ thuật Chèo hôm nay, Nhiều tác giả, Viện sân khấu xuất bản, H. 1988.
Mấy vấn đề nghệ thuật Chèo, Nhiều tác giả, Viện sân khấu và Sở Văn hóa -
Thông tin Thái Bình xuất bản kỷ yếu năm 1990.
Tổng luận nghệ thuật chèo (Ba tập), Tập I, Lê Thanh Hiền sưu tập, tuyển chọn,
khảo cứu, Nxb Văn hóa - Thông tin, H. 1996.
Khái luận về chèo (Giáo trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành kịch hát dân tộc),
Trần Bảng, Viện sân khấu và Trường đại học Sân khấu - điện ảnh, H. 1999.
Những mảnh trò hay, Tất Thắng, Nxb Sân khấu, H.1999.
Tiếp cận kho tàng Phôn-cho học Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh, Nxb Văn hóa dân
tộc, H.1999.
Về tư pháp kịch, Tất Thắng, Nxb Sân khấu, H.2000.
Sân khấu truyền thống từ chức năng giáo huấn đạo đức, Tất Thắng, Nxb Khoa
học xã hội, H.2002.
Ngoài các công trình tác phẩm trên, chúng tôi cũng đã tìm hiểu được khoảng vài
chục bài báo khoa học bàn về kịch hát dân tộc (trong đó có chèo) được công bố trên vài
ba cuốn tạp chí, song hầu hết đều là của các tác giả đã có công trình như đã dẫn ở trên.
Chúng tôi chú ý các bài: Về nguồn gốc và lịch sử tuồng chèo Việt Nam của các tác giả
Trần Quốc Vượng và Đinh Xuân Lâm (Tạp chí Văn học số 4-1966), Bàn về phương pháp
tự sự trong chèo của tác giả Trần Lộng Chương (Tuần báo văn nghệ ngày 24-6-1966),
Một số vấn đề kịch bản chèo cổ của tác giả Nguyễn Thị Nhung (Tạp chí Văn học số 2-
1969) và hai bài Chèo nghệ thuật ngẫu hứng (Tạp chí nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật số
1-1979) và Chèo sân khấu tự sự (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 6-1994) cùng của tác giả
Trần Bảng.
Lược điểm các công trình và bài báo trên về những thành tựu khoa học có trước
và đồng thời có liên quan đến vấn đề nghiên cứu nghệ thuật trào phúng Chèo truyền
thống dưới góc độ chỉnh thể của luận văn, chúng tôi cho rằng: Sau quá trình "Chèo cải
lương" hay "Chèo văn minh" trên các sân khấu hợp ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn... giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX, Chèo truyền thống nhìn chung chỉ được thật sự trở lại với đời
sống học thuật sân khấu và văn hóa văn nghệ dân tộc từ sau hòa bình lập lại (1954). Dưới
ánh sáng đường lối văn nghệ của Đảng, Bộ Văn hóa đã nhiều lần tổ chức các Hội nghị
nghệ nhân (1959 - 1964) mỗi đợt từ một đến ba tháng, nhằm phục hồi lại các tiết mục
kịch hát sân khấu dân tộc trên mọi phương diện. Vốn cũ rất lớn. Đây cũng là cơ hội cuối
cùng để chúng ta có thể thực hiện được một cuộc chuyển giao thế hệ giữa các vị nghệ
nhân chèo đã thành danh ở mọi chiếng chèo cổ trước Cách mạng tháng Tám với các nghệ
sĩ chèo thời đại mới. Kết quả của hoạt động này thật to lớn và hết sức quý giá.
Theo đó, trong thập kỷ sáu mươi của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu chèo
truyền thống đã có được một số thành tựu bước đầu. Nói riêng về nghệ thuật trào phúng,
các tác giả Hà Văn Cầu, Trần Việt Ngữ và Hoàng Kiều đã có những bước đột phá trong
quá trình khảo cứu làm thay đổi cả những quan niệm trước đó, những quan niệm về
nguồn gốc và sự hình thành Chèo từ danh xưng chiết tự Hán hoặc từ nguồn sử liệu thành
văn [16, tr. 235]. Đó là cách đặt vấn đề: Đến nay, nói đến đặc trưng chèo, ta thường thấy
nhắc tới hai tính chất trào lộng và trữ tình. Vậy thì hai tính chất trào lộng và trữ tình kia
đã hình thành và phát triển trong Chèo - ở đây là Chèo cổ - a sao? Hai tính chất đó đã
thống nhất thành hai yếu tố của cơ cấu một thể tài nhất quán, hay hai yếu tố đó đã phát
triển song song thành hai tuyến song hành của một thể tài hỗn hợp [6, tr. 26]. Đó là cách
giải quyết bước đầu: Bản chất trào lộng từ trong hoàn cảnh, môi trường sống mà hình
thành. Chèo hình thành trên cơ sở trò nhại và múa hát dân gian [16, tr. 60]. Chèođã thừa
hưởng và tiếp tục phát triển một cách xứng đáng truyền thống trào phúng dân gian của
văn học dân tộc... Tiếng cười bao trùm các tối diễn, khôi hài có, châm biếm có, tiếu lâm
có. Tìm hiểu tiếng cười, thích thú với tiếng cười trong các buổi diễn chèo đã hầu như
thành thói quen trong sinh hoạt văn nghệ ở nông thôn trước đây. Vì thế, mà có người ngộ
nhận chèo do tiếng trào (trào phúng) đọc chệch ra, hoặc cho Chèo là một loại tiếu lâm
bằng sân khấu [35, tr. 125]. Có điều dễ thấy là trong các công trình thời kỳ này, nhìn
chung các tác giả quan niệm chèo có nguồn gốc hình thức là từ nghệ thuật hài, song nội
dung chủ đạo cốt lõi thiên về cái bi. Do sự điều tiết tự nhiên của khán giả đồng sáng tạo,
dần dần yếu tố hài về mặt nội dung mới trở thành bộ phận hợp thành. Trong công trình
[5], tác giả Hà Văn Cầu đã chú ý đúng mức đến nội dung phê phán hiện thực xã hội trong
thời kỳ Chèo toàn thịnh nhờ sự có mặt của các vai Hề đa dạng. ở một số trang viết về lời
trò chèo [4, tr. 51], ông cũng đã chỉ ra một vài thủ phép gây cười dưới góc độ nghệ thuật
tu từ trào lộng nhưng không đặt vấn đề như một trọng tâm của tác phẩm. Nhìn chung, các
vấn đề trào phúng chèo trong thời kỳ này đều được chú trọng như là nội dung tính chiến
đấu trên kịch hát dân tộc. Một số ý kiến phê phán lời trò trào lộng còn "tự nhiên chủ
nghĩa" hoặc"mơ hồ hai mặt" trong một số nghiên cứu thời kỳ này, đến nay không còn
thích hợp. Bởi vì, ngay từ năm 1685, trong bản báo cáo "Trần thuật vương quốc Đàng
ngoài" của một khán giả - nhà buôn tên là Samuel Baron người Anh đã có đoạn nói về Hề
chèo "Vai hề đó là người tài trí bậc nhất mà người ta có thể tìm được quanh vùng, và họ
có đủ tài làm cho tất cả mọi người chung quanh phải bật cười về các sáng tạo và điệu bộ
của họ [16, tr. 82]. Và có lẽ vì thế (!), năm 1630 đã có Tavernier - một nhà buôn khác
xem Chèo đã gọi đó là hài kịch dân gian [16, tr. 82]. Mặc dù chúng ta có thể phê phán họ
đứng trên quan điểm thực dân trong nhiều vấn đề khác.
Kế theo, vào những năm bảy mươi, ở cả hai miền Bắc và Nam đều có những
công trình khảo cứu quan trọng về tổng thể Chèo truyền thống được công bố (của các tác
giả Hà Văn Cầu, Vũ Khắc Khoan và nhóm nguồn Việt). Năm 1973, Hà Văn Cầu sưu
tầm, dẫn luận, chú thích và cho xuất bản tác phẩm "Hề Chèo". Ông tự coi là chỉ làm dẫn
luận. ÔNg viết: Song vì thiếu tư liệu cho nên các công việc nghiên cứu, đánh giá vận
dụng Hề chèo còn gặp nhiều khó khăn, chưa đem lại được một sự thỏa mãn cho người
đọc. Trong tình hình chống Mỹ cứu nước, việc khai thác vốn hề xưa càng gặp nhiều khó
khăn..." [5, tr. 12]. Nói vậy, nhưng ông đã sưu tập được gần một trăm mẫu hề. Ông đã
bước đầu sắp xếp, chọn lọc và công bố tương đối có hệ thống để góp vào việc "vận dụng
vào chèo mới" sao cho đúng đường lối. Tuy vậy, đây là những tư liệu rất quý mà luận
văn này xin được kế thừa. Trong số này còn có Tuyển tập Chèo cổ, một bộ sưu tập bảy
văn bản chèo truyền thống được thừa nhận là những vở diễn hàng đầu (Quan Âm - Thị
Kính, Trương viên, Lưu Bình - Dương Lễ, Kim Nham, Chư Mãi Thần, Trinh Nguyên và
Từ Thức) được biên khảo, chỉnh lý công phu. ở Việt Nam, tác giả Vũ Khắc Khoan công
bố tác phẩm Tìm hiểu nghệ thuật Chèo. Ông đã giành ba trang bàn về "Đặc tính hài
hước". Ông nhấn mạnh: "đặc tính hài hước đã ảnh hưởng trực tiếp vào sự cấu tạo vở
Chèo" và "một gánh Chèo không thể đứng vững nếu không có một vài diễn viên có khả
năng và duyên dáng để thủ vai hề", nhưng có lẽ ông đã chưa đúng khi viết rằng "dẫn đến
một kết luận những vở chèo là những vở hài kịch" [16, tr. 215, 216, 217]. Trong khi đó,
nhóm nguồn Việt công bố tác phẩm "Hát chèo của dân tộc Việt Nam" lại đi sâu vào "bếp
núc" nghề chèo truyền thống và sau khi cung cấp hàng loạt tư liệu với 27 khía cạnh liên
quan đến các hoạt động nghiên cứu, sáng tác, trình diễn, thưởng thức Chèo, sách này
khẳng định vai trò đặc biệt của