Như chúng ta đã biết, trong cơ chế thị trường, bất kể doanh nghiệp nào muốn tồn
tại và phát triển thì không những phải tổ chức tốt bộ máy quản lý, mà còn phải làm tốt
công tác tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo chu kì sản xuất được diễn ra liên tục, tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng vốn và từ đó tạo điều kiện mở rộng sản xuất.
Các doanh nghiệp khi tiến hành thiết kế sản phẩm để sản xuất thì trước hết phải tiến
hành khảo sát thị trường tiêu thụ sản phẩm từ đó thu thập được các thông tin giúp cho họ
có thể lập được quy mô và kế hoạch sản xuất sao cho sản phẩm sản xuất ra luôn đáp ứng
được nhu cầu thị trường, tránh được ứ đọng. Qua tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp có thể
biết được khả năng tiếp nhận sản phẩm đó của thị trường và đưa ra kế hoạch sản xuất hay
mở rộng sản xuất của doanh nghiệp trong tương lai. Nhưng không phải thị trường cần
loại hàng hoá nào thì ta sản xuất loại hàng hoá đó là tiêu thụ đựơc, mà còn liên quan đến
giá cả chất lượng mẫu mã, sự cạnh tranh...Để có thể thực hiện tốt được công tác tiêu thụ
thì doanh nghiệp phải có kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trong ngắn hạn và dài hạn, thu thập
thông tin phản hồi từ công tác tiêu thụ một cách kịp thời và hiệu quả để có thể kịp thời
sửa đổi cho phù hợp.
Như vậy công tác tiêu thụ là công tác thiết yếu đòi hỏi phải được thực hiện tốt các
vấn đề: sản xuất sản phẩm gì ? Số lượng bao nhiêu? Dựa vào công tác tiêu thụ mới tránh
được sự ứ đọng và luân chuyển chậm.
Nhận biết được điều này và qua quá trình thực tập tại Tổng cồng ty vật tư nông
nghiệp em thấy đây là vấn đề hết sức cấp thiết tại Tổng công ty nên em muốn đi sâu
nghiên cứu vấn đề này qua đề tài: “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ ở Tổng
công ty vật tư nông nghiệp”.
72 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ ở tổng công ty vật tư nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu
thụ ở Tổng công ty vật tư nông nghiệp
Lời mở đầu
Như chúng ta đã biết, trong cơ chế thị trường, bất kể doanh nghiệp nào muốn tồn
tại và phát triển thì không những phải tổ chức tốt bộ máy quản lý, mà còn phải làm tốt
công tác tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo chu kì sản xuất được diễn ra liên tục, tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng vốn và từ đó tạo điều kiện mở rộng sản xuất.
Các doanh nghiệp khi tiến hành thiết kế sản phẩm để sản xuất thì trước hết phải tiến
hành khảo sát thị trường tiêu thụ sản phẩm từ đó thu thập được các thông tin giúp cho họ
có thể lập được quy mô và kế hoạch sản xuất sao cho sản phẩm sản xuất ra luôn đáp ứng
được nhu cầu thị trường, tránh được ứ đọng. Qua tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp có thể
biết được khả năng tiếp nhận sản phẩm đó của thị trường và đưa ra kế hoạch sản xuất hay
mở rộng sản xuất của doanh nghiệp trong tương lai. Nhưng không phải thị trường cần
loại hàng hoá nào thì ta sản xuất loại hàng hoá đó là tiêu thụ đựơc, mà còn liên quan đến
giá cả chất lượng mẫu mã, sự cạnh tranh...Để có thể thực hiện tốt được công tác tiêu thụ
thì doanh nghiệp phải có kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trong ngắn hạn và dài hạn, thu thập
thông tin phản hồi từ công tác tiêu thụ một cách kịp thời và hiệu quả để có thể kịp thời
sửa đổi cho phù hợp.
Như vậy công tác tiêu thụ là công tác thiết yếu đòi hỏi phải được thực hiện tốt các
vấn đề: sản xuất sản phẩm gì ? Số lượng bao nhiêu? Dựa vào công tác tiêu thụ mới tránh
được sự ứ đọng và luân chuyển chậm.
Nhận biết được điều này và qua quá trình thực tập tại Tổng cồng ty vật tư nông
nghiệp em thấy đây là vấn đề hết sức cấp thiết tại Tổng công ty nên em muốn đi sâu
nghiên cứu vấn đề này qua đề tài: “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ ở Tổng
công ty vật tư nông nghiệp”.
Kết cấu đề tài bao gồm:
Mở đầu : Nêu lý do chọn đề tài.
Nội dung : Có 3 phần.
+ Phần 1: Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường.
+ Phần 2: phân tích hoạt động kinh doanh phân bón hoá học ở Tổng công ty vật tư
nông nghiệp.
+ Phần 3: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ ở Tổng công ty vật tư nông
nghiệp.
Kết luận.
Phần 1
đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp trong
cơ chế thị trường
I. những quan niệm cơ bản về tiêu thụ sản phẩm
1. Quan niệm về tiêu thụ sản phẩm, vai trò và nguyên tắc.
a. Quan niệm về tiêu thụ sản phẩm.
- Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, công tác tiêu thụ không được chú trọng
trong doanh nghiệp. Sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra theo kế hoạch nhà nước giao cho
là phải hoàn thành theo đúng kế hoạch còn công tác tiêu thụ do nhà nước chiụ trách
nhiệm. Như vậy, tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế này là khâu cuối cùng của quá trình sản
xuất khối lượng sản phẩm có thể đạt kế hoạch, vượt kế hoạch Nhà nước giao cho, còn thị
trường do nhà nước chịu trách nhiệm.
- Với cơ chế thị trường thì bất cứ doanh nghiệp nào cũng đều phải quan tâm từ khâu
sản xuất đến khâu tiêu thụ, bởi trong cơ chế thị trường công tác tiêu thụ ảnh hưởng lớn
đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đặc trưng của sản phẩm hàng hóa là nó được sản xuất ra để bán nhằm thực hiện
những mục tiêu đề ra trong phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy,
tiêu thụ sản phẩm là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối giữu một bên là sản xuất và một
bên là tiêu dùng.
Có thể định nghĩa tiêu thụ sản phẩm như sau: “Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng
của quá trình sản xuất kinh doanh, là hoạt động mà nhà sản xuất chuyển giao quyền sở
hữu và sử dụng sản phẩm của mình cho người tiêu dùng để thu tiền tệ về “Nói cách khác,
tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá qua tiêu thụ, hàng hoá được
chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn kinh doanh
của doanh nghiệp được hình thành.
Quá trình tiêu thụ chỉ kết thúc khi quá trình thanh óan giữa ngưòi mua và người bán
đã diễn ra và quyền sở hữu đã thay đổi. Người bán nhận được tiền, người mua nhận được
hàng hoá và kết thúc một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Công tác tiêu thụ sản phẩm giải
quyết tính hiệu quả của một quá trình sản xuất kinh doanh và tái sán xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp.
a. Vai trò
Tiêu thụ sản phẩm đóng một vai trò rất quan trọng trong bất kỳ doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh nào. nếu tiêu thụ bị chậm trễ sẽ làm ứ đọng vốn, chu kỳ sản xuất kéo dài
dẫn đến bất lợi cho doanh nghiệp, có thể phải ngừng sản xuất. Như vậy công tác tiêu thụ
sản phẩm phản ánh kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, thể hiện bằng sự
lỗ hay lãt của doanh nghiệp.
- Vai trò của tiêu thụ đối với quá trình sản xuất .
Quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm các khâu chủ yếu: Sản xuất – Phân phối –
Trao đổi – Tiêu dùng. Các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh tuy mang tính chất
riêng biệt nhưng có quan hệ sở hữu cơ với nhau, bất kỳ một khâu trong quá trình bị gián
đoạn hay ngừng trệ sẽ có ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh. Còn quá trình tái sản xuất
chỉ có thể diễn ra khi sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tức là chúng được chuyển hoá
sang hình thái tiền tệ, như vậy đây là một giai đoạn tất yếu của quá trình tái sản xuất xã
hội
- Tiêu thụ sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Công tác tiêu thụ sản phẩm có vai trò to lớn đối với hiệu quả sử dụng vón kinh
doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là vốn lưu động. Vốn lưu động hầu hết được chuyển
vào giá trị của sản phẩm, nếu tiêu thụ tốt sẽ tạo sự lưu chuyển vốn nhanh góp phần tăng
nhanh vòng quay của vốn, tức là đã tăng hiệu quả sử dụng vốn trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Còn ngược lại sẽ gây ứ đọng vốn làm cho sản xuất bị ngừng trệ, giảm hiệu
quả sử dụng vốn gây thất thoát cho doanh nghiệp.
-Tiêu thụ sản phẩm còn đóng vài trò quan trọng trong việc thực hiện và phản ánh
tổng doanh thu của doanh nghiệp.
Muốn tiêu thụ nhanh có thể bán với giá thực tế, có thể bán với giá thấp hơn nhưng
không được nhỏ hơn giá thành. Điều dó làm tăng doanh thu cho doanh nghiệp, giảm
dược chi phí trong quá trình tiêu thụ, có thể làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngoài
ra còn nâng cao chất lượng và hoàn thiện sản phẩm hơn nữa.
-Tiêu thụ sản phẩm còn giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì mối quan hệ của
doanh nghiệp với khách hàng và mở rộng thị trường.
Đôi khi doanh nghiệp phải tập trung mọi nguồn lực để sản xuất bảo đảm đáp ứng
kịp thời nhu cầu thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm được thực hiện trực tiếp nối liền quan
hệ giữa cung của doanh nghiệp và cầu của tị trường, tránh sự tách rời tức là giảm chi phí
ban đầu và thời gian làm quen của khách hàng với sản phẩm của doanh nghiệp do công
tác tiêu thụ bị ngừng trệ.
2. Các hình thức tiêu thụ sản phẩm.
Trong công tác tiêu thụ sản phẩm có các loại hình thức tiêu thụ khác nhau, vì vậy,
vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là phải áp dụng các hình thức cho từng loại sản phẩm
khác nhau sao cho các ưu điểm của hình thức đó được phát huy và hạn chế nhược điểm
của nó được tối đa .
Dưới đây là một số hình thức tiêu thụ sản phẩm .
a. Phân theo cách thức tiêu thụ có:
*Trực tiếp: Là hình thức tiêu thụ mà sản phẩm hay dịch vụ được bán trực tiếp đến
tay người tiêu dùng cuối cùng không qua bất cứ một tổ chức hay cá nhân trung gian nào.
Hình thức tiêu thụ này được áp dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số lượng sản
phẩm sản xuất không lớn .
*Gián tiếp : là hình thức tiêu thụ mà sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp thông
qua các tổ chức hay cá nhân trung gian như: Môi giới, các tổ chức thương mại... Sau đó
mới đến tay người tiêu dùng. Hình thức này được áp dụng rất phổ biến trong các doanh
nghiệp nó có thể khắc phục những hạn chế của công tác tiêu thụ và đẩy nhanh được tốc
độ tiêu thụ sản phẩm.
b. Phân theo số lượng bán ra.
Bán lẻ: Là mọi hoạt động bán hàng hoa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng
để họ sử dụng cho cá nhân, không mang tính thương mại.
Doanh nghiệp quyết định bán lẻ thông qua quyết định về lựu chọn thị trường mục
tiêu, chủng loại hàng hoá và dịch vụ, chính sách giá cả, khuyến khích, địa điểm bố trí xí
nghiệp. Dịch vụ bán lẻ cần nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý và hiệu suất kinh doanh
của mình.
*Bán sỉ : Bao gồm mọi hoạt động nhằm bán hàng hay dịch vụ cho những người mua
chúng để bán lại hay sử dụng cho nghề nghiệp. Những nhà bán sỉ giúp đỡ nhà sản xuất tổ
chức có hiệu quả việc đưa hàng đi mọi nơi. Nhà bán sỉ làm nhiều chức năng khác nhau,
bao gồm hoạt động tiêu thụ và kích thích, thu mua và hình thành chủng loại hàng hoá,
phân lô hành lớn thành nhiều lô hàng nhỏ, lư kho, vận chuyển, cấp vốn, chấp nhận rủi ro,
cung cấp thông tin về thị trường, làm dịch vụ quản lý và tư vấn. Có thể phân nhà bán sỉ
thành 4 nhóm :
-Nhà bán sỉ mua quyền sở hữu hàng hoá
-Các đại lý và người môi giới không mua quyền sở hữu hàng hoá mà nhận tiền hoa
hồng về việc hỗ trợ mua bán
-Bộ phận và văn phòng bán sỉ của nhà sản xuất
-Những nhà bán sỉ chuyên doanh về một mặt hàng nào đó nên họ đặt hàng với đơn
vị sản xuất mặt hàng đó một cách thường xuyên.
Bán sỉ là một hoạt động độc lập trong nền kinh tế, ở các doanh nghiệp hiện nay
ngoài việc sản xuất , còn đặc biệt quan tâm đến công tác tiêu thụ sản phẩm vì vậy họ
không ngừng cải tiến dịch vụ của mình cho phù hợp với nhu cầu cụ thể của người tiêu
dùng và tìm cách giảm bớt chi phí kinh doanh.
c. Các hình thức tiêu thụ khác.
Ngoài các hình thức tiêu thụ chính đã trình bày ở trên trong thực tế còn có một số
hình thức tiêu thụ tổng hợp mà các doanh nghiệp đã và đang áp dụng đó là.
-Phương pháp tổng hợp với phương pháp này thông
thường các doanh nghiệp mở đaị lý tiêu thụ ở nhiều nơi, tại các đại lý, căn cứ vào số
lượng bán ra để quyết định giá. Với những khách hàng khác nhau, đại lý có chính sách
giá khác nhau.
- Tiêu thụ theo đơn đặt hàng: Tiêu thụ theo khối lượng ghi trong hợp đồng .
- Sản xuất các sản phẩm cho ngành mà doanh nghiệp trực thuộc.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm.
3.1 Nhân tố khách quan.
a. Nhân tố thuộc tầm vĩ mô.
Trong cơ chế thị trường nhà nước có nhiệm vụ điều tiết bổ sung những chỗ còn
khiếm khuyết trên thị trường, giúp cho thị trường ổn định, cạnh tranh lành mạnh.
Về thực tế trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường thì sự quản lý của nhà nước là không thể thiếu được
không những giúp cho thị truường ổn định mà còn chú trọng đến sự phát triển của những
ngành then chốt.
Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước luôn có tác động vào nền kinh tế
nói chung và thị trường nói riêng, với các chính sách như thuế, quỹ bình ổn giá, trợ giá,
lãi suất, chính sách xuất nhập khẩu... có ý nghĩa và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mỗi khi có sự sủa đổi. Vì vậy, mỗi khi sửa đổi chính sách
nào đó đòi hỏi phải có thời gian để các doanh nghiệp kịp thích nghi, và cần có sự ưu tiên
thoả đáng đối với nhũng ngành mang tính then chốt của nền kinh tế.
b. Nhân tố thị trường.
Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của công tác tiêu thụ sản phẩm, nó là
nhân tố tổng hợp tác động đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường . Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để tồn tại và phát triển đều phải coi
vấn đề định hướng về sản xuất kinh doanh từ thị trường tiêu thụ là vấn đề quan tâm hàng
đầu. Nhu cầu của thị trường rất phong phú và đa dạng, nhưng doanh nghiệp chỉ có thể
chọn đoạn thị trường thích hợp với mục đích và tiềm năng của mình. Vì vậy khi bắt đầu
bước vào sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi: Sản xuất cái gì
? Sản xuất như thế nào ? Sản xuất cho ai ? Sản xuất ở đâu ? ... Theo định hướng từ thị
trường doanh nghiệp không phải bán những gì mình có mà phải bán những gì thị trường
cần trên cơ sở tiềm năng của doanh nghiệp. Vậy thị trường của doanh nghiệp là nhóm
khách hàng có nhu cầu đồng nhất mà doanh nghiệp có khả năng chi phối.Từ đó ta thấy
thị trường có các nhân tố chính sau.
- Mức độ cạnh tranh sản phẩm cùng loại các sản phẩm có khả năng thay thế sản
phẩm của doanh nghiệp. Bất cứ một sản phẩm nào cùng loại có chất lượng tốt hơn, mang
lại lợi ích cao hơn sản phẩm của doanh nghiệp, thì khách hàng không ngần ngại lựa chọn
sản phẩm đó, nên doanh nghiệp không được phép coi thường bất cứ một sản phẩm cùng
loại nào, có thể mặc dù hiện tại sản phẩm cùng loại đó không thể cạnh tranh được với sản
phẩm của doanh nghiệp nhưng trong tương lai sản phẩm đó thay đổi theo chiều hướng
tích cực với tốc độ nhanh thì nó có thể trở thành sản phẩm cạnh tranh với sản phẩm của
doanh nghiệp trên thị trường. Và nếu doanh nghiệp không thực hiện nâng cao chất lương
sản phẩm thì doanh nghiệp dễ bị thất bại trên thị trường .
- Các nhân tố từ phía khách hàng như yếu tố tâm lý, tập quán, thị hiếu người tiêu
dùng...Khi tung sản phẩm mới ra thi trường doanh nghiệp cần phải nghiên cứu các yếu tố
trên ở khách hàng. Đặc biệt phải quan tâm đến tập quán từng khu vực , cơ cấu dân số ,
giới tính, độ tuổi, thu nhập...Vì có như vậy doanh nghiệp mới có những kết luận chính
xác về thi trường mục tiêu của mình và xây dựng kế hoạch tiêu thụ có hiệu quả cao. Mức
tăng dân số và thu nhập của dân cư cũng là yếu tố tác động mạnh tới tiêu thụ của doanh
nghiệp . Dân số tăng , thu nhập tăng sẽ tăng tốc đọ tiêu đùng đặc biệt là các sản phẩm
tiêu dùng thiết yếu , còn các sản phẩm khác nếu thu nhập tăng thì tốc độ tiêu thụ cũng
tăng. Ngoaì ra ở độ tuổi khác nhau cũng có những nhu cầu tiêu dùng khác nhau, thanh
thiếu niên thường thích dùng những sản phẩm đẹp và hợp thời . Còn những người có tuổi
thường quan tâm đến chất lượng và giá cả của sản phẩm. Vì vậy khi nghiên cứu thị
trường cần nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường nói cách khác phải phân đoạn thị trường
đó thành những đoạn thị trường nhỏ theo những tiêu chuẩn như khu vực, độ tuổi, giới
tính, thu nhập...Để thu thập thông tin, phân tích đáng giá được chính xác.
- Nhân tố về phía doanh nghiệp .Thị trường thì có nhu cầu như vậy còn về phía
doanh nghiệp thì sao? Qua nghiên cứu thị trường doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu
của khách hàng, đồng thời doanh nghiệp cũng dựa vào khả năng của mình như : Điều
kiện sản xuất kinh doanh, trình độ máy móc thiết bị, trình độ công nhân, khả năng về
vốn, khả năng về quản lý … Từ đó doanh nghiệp xây dựng một chiến lược sản xuất kinh
doanh phù hợp nhất và có hiệu quả cao nhất.
Tạo sức mạnh cạnh tranh là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị
trường, muốn vậy doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng sản xuất, nâng cao chất
lượng, hạ giá thành để mở rộng thị trường, chiếm lĩnh thị trường mới, điều này đồng
nghĩa với việc tăng khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp
3.2. Nhân tố chủ quan:
a. Yếu tố về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Trước hết chất lượng sản phẩm là hệ thống những đặc tính nội tại của sản phẩm
được xác định bằng các thông số có thể đo hoặc so sánh được, phản ánh giá trị sử dụng
và chức năng của sản phẩm đó phù hợp với điều kiện hiện tại và thoả mãn nhu cầu xã
hội. Tiêu chuẩn chất lượng ISO cho rằng: Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu
những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó, thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những
điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong
muốn.
Chất lượng sản phẩm là vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh cùng loại sản phẩm trên thị trường. Chất lượng sản phẩm luôn được đặt lên hàng
đầu trong việc kinh doanh hiện nay. Vì vậy để giữ vững uy tín và vị thế của doanh nghiệp
bắt buộc doanh nghiệp phải nâng cao chấi lượng sản phẩm của mình.
b. Giá cả sản phẩm.
Giá cả sản phẩm là một thông số đánh giá một phần chất lượng sản phẩm nhưng nó
cũng là nhân tố ảnh hưởng đến số lượng người mua, giá cả còn là vũ khí cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đối với những khu vực mà đời sống người dân còn thấp thì
giá cả là yếu tố khá quan trọng quyết định đến số lượng hàng hoá bán được của doanh
nghiệp. Vậy xây dựng một chính sách giá cả phù hợp là vấn đề rất quan trọng và cấp
thiết.
3.3. Các nhân tố khác.
Ngoài các nhân tố khách quan và chủ quan trên công tác tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng bởi một số các yếu khác như:
+ Công nghệ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Nhịp độ phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành.
+ Thị phần của doanh nghiệp.
+ Uy tín của doanh nghiệp cũng như uy tín về sản phẩm của doanh nghiệp.
+ Dịch vụ của doanh nghiệp trong khâu bán hàng
II. Nội dung chủ yếu của công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong
cơ chế thị trường.
1. Nghiên cứu dự báo thị trường.
Mục đích của việc nghiên cứu dự báo thị trường là xác định khẩ năng tiếp nhận của
thị trường về khôi lượng, chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, bao bì. Từ đó doanh nghiệp có
thể vạch ra kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Muốn vậy người làm công tác thị
trường phải thực hiện các công việc sau.
+ Thu thập thông tin.
Tổ chức hợp lý việc thu thập các nguồn thông tin và nhu cầu của các loại thị
trường. Các thông tin về người tiêu dùng cơ cấu dân cư, giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi,
thu nhập, chi phí cho tiêu dùng sản phẩm mà doanh nghiệp quan tâm. Các thông tin về
môi trường kinh doanh như chế độ của nhà nước, trình độ khoa học kỹ thuật của nhành,
công nghệ… Để thu thập thông tin cho doanh nghiệp, có thể dùng các phương pháp
nghiên cứu:
- Phương pháp ngiên cứu tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu hiện trường.
+ Phân tích và xử lý đúng đắn các thông tin đã thu thập được một cách chính xác.
Đây là khâu quan trọng trong quá trình nghiên cứu của thị trường. Từ các thông tin thu
thập được qua phân tích xác định được cho doanh nghiệp thị trường mục tiêu và xác lập
các chính sách, kế hoạch sản xuất kinh doanh thích ứng. Mục tiêu của công tác này là xác
định thái độ chung của nhười tiêu dùng đối với sản phẩm của doanh nghiệp và lựa chọn
thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp có khả năng xâm nhập
2. Lập kế hoạch tiêu thụ.
Kế hoạch tiêu thụ là bộ phận chủ đạo trong kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm
của doanh nghiệp, nó là cơ sở tính toán các chỉ tiêu kế hoạch khác. Kế hoạch tiêu thụ
vạch ra số lượng cũng như tiến độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, đó cũng là căn cứ
để doanh nghiệp định hướng công tác sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả nhất.
3. Định giá sản phẩm tiêu thụ.
+ Chính sách định giá thấp: Là mức giá mà doanh nghiệp đưa ra thấp hơn giá bán
thị trường, đôi khi còn thấp hơn giá trị sản phẩm. Chính sách này thường được đưa ra khi
doanh nghiệp mới thâm nhập thị trường để gây được sự chú ý của khách hàng, cũng có
thể do doanh nghiệp tung ra một số lượng sản phẩm lớn ra thị trường để bán nhanh thu
hồi vốn và kinh doanh các mặt hàng khác hoặc muốn đánh bại đối thủ cạnh tranh, cũng
có thể sản phẩm ở giai đoạn thứ tư của chu kỳ sống sản phẩm .
+ Chính sách định giá theo cạnh tranh: Xác định giá bán trên cơ sở giá bán của đối
thủ cạnh tranh .
- Giá bán bằng mức giá của đối thủ cạnh tranh khi sản phẩm là tương đương, lúc
này doanh nghiệp muốn bán được nhiều sản phẩm thì phải sử dụng các biện pháp xúc
tiến bán hàng.
- Giá thấp hơn mức giá của đối thủ cạnh tranh khi sản phẩm tương ứng của doanh
nghiệp có chi phí thấp hơn.,
- Giá cao hơn mức giá của đối thủ cạnh tranh nếu sản phẩm của doanh nghiệp có
chất lượng, tính năng sử dụng, chi phí cao hơn.
+ Chính sách định giá theo chi phí cộng với tỷ lệ lãi. Được áp dụng khi sản phẩm
của doanh nghiệp là độc quyền trên thị trường, tỷ lệ lãi độc quyền này đem lại cho doanh
nghiệp mức lãi cao nhất.
+ Chính sách định mức giá số lẻ: làm cho người mua tưởng gía rẻ nên khuyến khích
mua mặc dù độ chênh lệch giá rất thấp
+ Chính sách giá theo dãy số giá. Tức là do