Từ trước đến nay vấn đề chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm
ở nước ta. Mặc dù trước đây trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, vấn đề chất
lượng đã từng được đề cao và được coi là một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa
mang lại là bao do cơ chế tập trung sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, sản
phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so sánh, cạnh tranh
về sản phẩm dẫn đến chất lượng sản phẩm dần bị mất đi ý nghĩa và không còn là một yếu
tố quan trọng nữa mà vấn đề quan trọng lúc bấy giờ là chỉ tiêu số lượng.
Trong hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, vấn đề chất lượng
sản phẩm dần dần trở về đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng đã có ý thức về việc chọn
lựa cho mình những sản phẩm có chất lượng, hàng hoá dịch vụ tốt nhất. Các nhà doanh
nghiệp cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu tìm tòi nghiên
cứu những cơ chế mới về chất lượng đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Chất
lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại
trong cạnh tranh quyết định sự tồn tại, hưng vong của từng doanh nghiệp nói riêng cũng
như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Đảm bảo không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra vị chí vững chắc trên thị trường góp phần vào việc
nâng cao chất lượng đời sống của toàn xã hội.
Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam -Hungary là một trong những Công ty dẫn đầu
trong ngành Máy điện Việt Nam. Công ty có đội ngũ cán bộ lành nghề, với trang thiết bị
máy móc hiện đại do Hungary trang bị thiết bị toàn bộ cùng với sự quản lý chặt chẽ và
hợp lý. Do vậy sản phẩm của công ty đã có một vị thế đáng kể và có mặt ở hầu hết các thị
trường trong nước. Không những thế hiện nay vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm của
Công ty đã được nhận thức đúng đắn và Ban lãnh đạo của Công ty luôn tìm mọi cách
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng trong Công ty. Đặc biệt hiện nay Công ty
đang áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ISO 9001: 2000 để hoàn thiện và nâng cao
chất lượng sản phẩm của mình.
Tuy nhiên, so với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng nhất là trong xu thế
hội nhập toàn cầu như hiện nay, thì chất lượng sản phẩm của Công ty cần phải được ngày
càng nâng cao hơn nữa để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng
nhằm đứng vững được trước mọi sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường.
Luận văn tốt nghiệp với đề tài:
" Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Chế tạo
máy điện Việt Nam - Hungary.
Đề tài này gồm:
Phần I : Những vấn đề chung về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng
của doanh nghiệp.
Phần II : Phân tích tình hình tổ chức và quản lý chất lượng sản phẩm của Công
ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary.
Phần III : Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty chế tạo
máy điện Việt nam – Hungary.
55 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2021 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm ở Công ty Chế tạo máy
điện Việt Nam - Hungary
LờI NóI Đầu
Từ trước đến nay vấn đề chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm
ở nước ta. Mặc dù trước đây trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, vấn đề chất
lượng đã từng được đề cao và được coi là một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa
mang lại là bao do cơ chế tập trung sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, sản
phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so sánh, cạnh tranh
về sản phẩm dẫn đến chất lượng sản phẩm dần bị mất đi ý nghĩa và không còn là một yếu
tố quan trọng nữa mà vấn đề quan trọng lúc bấy giờ là chỉ tiêu số lượng.
Trong hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, vấn đề chất lượng
sản phẩm dần dần trở về đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng đã có ý thức về việc chọn
lựa cho mình những sản phẩm có chất lượng, hàng hoá dịch vụ tốt nhất. Các nhà doanh
nghiệp cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu tìm tòi nghiên
cứu những cơ chế mới về chất lượng đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Chất
lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại
trong cạnh tranh quyết định sự tồn tại, hưng vong của từng doanh nghiệp nói riêng cũng
như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Đảm bảo không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra vị chí vững chắc trên thị trường góp phần vào việc
nâng cao chất lượng đời sống của toàn xã hội.
Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam -Hungary là một trong những Công ty dẫn đầu
trong ngành Máy điện Việt Nam. Công ty có đội ngũ cán bộ lành nghề, với trang thiết bị
máy móc hiện đại do Hungary trang bị thiết bị toàn bộ cùng với sự quản lý chặt chẽ và
hợp lý. Do vậy sản phẩm của công ty đã có một vị thế đáng kể và có mặt ở hầu hết các thị
trường trong nước. Không những thế hiện nay vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm của
Công ty đã được nhận thức đúng đắn và Ban lãnh đạo của Công ty luôn tìm mọi cách
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng trong Công ty. Đặc biệt hiện nay Công ty
đang áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ISO 9001: 2000 để hoàn thiện và nâng cao
chất lượng sản phẩm của mình.
Tuy nhiên, so với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng nhất là trong xu thế
hội nhập toàn cầu như hiện nay, thì chất lượng sản phẩm của Công ty cần phải được ngày
càng nâng cao hơn nữa để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng
nhằm đứng vững được trước mọi sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường.
Luận văn tốt nghiệp với đề tài:
" Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Chế tạo
máy điện Việt Nam - Hungary.
Đề tài này gồm:
Phần I : Những vấn đề chung về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng
của doanh nghiệp.
Phần II : Phân tích tình hình tổ chức và quản lý chất lượng sản phẩm của Công
ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary.
Phần III : Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty chế tạo
máy điện Việt nam – Hungary.
Phần I
Những vấn đề chung về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm
trong doanh nghiệp
I. Khái niệm chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường việc sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào
thành công hay thất bại đều phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
đó. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề chất lượng sản phẩm hơn lúc
nào hết được các doanh nghiệp quan tâm một cách nghiêm túc. Việc đưa chất lượng sản
phẩm vào nghiên cứu như là một môn học chính đã đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong quá trình phát triển khoa học kinh tế ở nước ta.
1. Khái niệm chất lượng sản phẩm.
Hiện nay, theo tài liệu các nước trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về
chất lượng sản phẩm. Mỗi quan niệm khác nhau đều có những căn cứ khoa học và thực
tiễn khác nhau và có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng
không ngừng phát triển và hoàn thiện. Tuỳ thuộc vào góc độ xem xét, quan niệm của mỗi
nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và nhằm mục tiêu khác nhau.
Người ta đưa ra nhiều khái niệm về chất lượng sản phẩm cũng khác nhau.
Chất lượng - theo quan điểm triết học - là một phần tồn tại cơ bản bên trong các sự
vật hiện tượng. Theo Mác thì chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị
sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó
và nó chính là chất lượng của sản phẩm.
Theo quan điểm của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây mà Liên Xô là đại diện thì
chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị
sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó những
điều kiện xác định về kinh tế - kỹ thuật. Đây là một định nghĩa xuất phát từ quan điểm của
các nhà sản xuất. Về mặt kinh tế, quan điểm này phản ánh đúng bản chất của sản phẩm.
Qua đó dễ dàng đánh giá được mức độ chất lượng sản phẩm đạt được nhờ đó xác định
được rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần hoàn thiện. Tuy nhiên, chất lượng sản
phẩm chỉ được xem xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường, làm cho chất lượng sản
phẩm không thực sự gắn với nhu cầu và sự vận động biến đổi của nhu cầu trên thị trường,
với hiệu quả kinh tế và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này cũng
dễ hiểu bởi vì cũng giống như nước ta, các nước XHCN sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ
theo kế hoạch, sản phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so
sánh, cạnh tranh về sản phẩm.
Từ đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội đã dẫn đến cách hiểu chưa đầy đủ về chất
lượng sản phẩm và đây cũng là một yếu tố kìm hãm nền kinh tế của các nước XHCN nói
chung và nước ta nói riêng.
Bước sang cơ chế thị trường khi nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì định nghĩa trên không còn phù hợp nữa. Quan điểm
về chất lượng sản phẩm phải được nhìn nhận năng động thực tiễn và hiệu quả hơn. Tức là
khi xem xét chất lượng sản phẩm phải gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị
trường, với chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Những quan niệm mới đó được gọi là
quan niệm chất lượng sản phẩm theo hướng khách hàng. Có rất nhiều tác giả theo quan
niệm này, với nhiều cách diễn đạt khác nhau:
Crosby: Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay đặc tính nhất định.
Feigenbaum: Chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ và
vận hành của sản phẩm, nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu
dùng khi sử dụng sản phẩm.
Juran: Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng. Phần lớn các chuyên
gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường coi chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với
nhu cầu hay mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Các đặc điểm kinh tế – kỹ thuật phản
ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thoả mãn được những đòi hỏi của người tiêu dùng.
Chất lượng được nhìn từ bên ngoài, theo quan điểm của khách hàng. Chỉ có những đặc
tính đáp ứng được nhu cầu của hàng hoá mới là chất lượng sản phẩm. Mức độ đáp ứng
nhu cầu là cơ sở để đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Theo quan niệm này
chất lượng sản phẩm không phải là cao nhất và tốt nhất mà là sự phù hợp với nhu cầu.
Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên. tổ
chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đã đưa ra khái niệm: “Chất lượng là tập hợp các
đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) có khả năng thoả mãn
nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn” (Theo ISO 8402:1994).
Dựa trên khái niệm này, cục đo lường chất lượng nhà nước Việt Nam đã đưa ra khái
niệm: “Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các tính chất
biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định, đảm bảo các yêu cầu của người sử dụng nhưng cũng đảm bảo các tiêu chuẩn
thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước” (TCVN-5814-1994).
Về thực chất, đây là những khái niệm có sự kết hợp của những quan niệm trước đây
và những quan niệm trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Bởi vậy những quan niệm này được chấp nhận khá phổ biến và rộng rãi hiện nay.
Tuy nhiên quan niện chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển, bổ xung hơn nữa.
Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng
sản phẩm của mình nhưng không thể theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn
có giới hạn về kinh tế xã hội và công nghệ. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm
chắc các loại chất lượng sản phẩm:
Chất lượng thiết kế: Là giá trị thể hiện bằng các tiêu chuẩn chất lượng được phác
thảo bằng các văn bản, bản vẽ.
Chất lượng tiêu chuẩn: Là chất lượng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật
của quốc gia, quốc tế, địa phương hoặc ngành.
Chất lượng thị trường: Là chất lượng bảo đảm thoả mãn những nhu cầu nhất định,
mong đợi của người tiêu dùng.
Chất lượng thành phần: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn những nhu cầu mong đợi
của một hoặc số tầng lớp người nhất định.
Chất lượng phù hợp: Là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường, tâm lý người tiêu
dùng.
Chất lượng tối ưu: Là giá trị các thuộc tính của sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu
của xã hội nhằm đạt được hiêụ quả kinh tế cao nhất.
II. Đặc điểm và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm.
1. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội công nghệ tổng hợp, luôn luôn
thay đổi theo không gian và thời gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện
kinh doanh cụ thể của từng thời kỳ.
Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt nội tại của bản
thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong
quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất
lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm.
Nói tới chất lượng là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu
của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu
chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với mỗi sản phẩm, ở các nước tư bản qua phân tích thực tế chất
lượng sản phẩm trong nhiều năm người ta đã đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt
hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra,
kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả nghiệm thu cuối cùng.
Chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể về kinh tế - kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng. Trong kinh doanh,
không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể đề
ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với
yêu cầu của khách hàng. Nhiều khi chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc, tính
truyền thống, thị hiếu tiêu dùng.
Chất lượng sản phẩm biểu hiện ở hai cấp độ và phản ánh hai mặt khách quan và chủ
quan hay còn gọi là hai loại chất lượng:
Thứ nhất, chất lượng trong tuân thủ thiết kế, thể hiện ở mức độ chất lượng sản phẩm
đạt được so với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kỹ
thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng sản phẩm càng cao được phản ánh
thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm hỏng loại bỏ, sản phẩm không đạt
yêu cầu thiết kế. Loại chất lượng này phản ánh những đặc tính, bản chất khách quan của
sản phẩm, do đó liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh về chi phí.
Thứ hai, chất lượng trong sự phù hợp hay còn gọi là chất lượng thiết kế. Nó phản ánh
mức độ phù hợp của sản phẩm đối với nhu cầu của khách hàng. Chất lượng phụ thuộc vào
mức độ phù hợp của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Mức độ phù hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào
mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng, vì vậy nó tác động mạnh mẽ
khả năng tiêu thụ sản phẩm.
2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm.
Khi nói tới chất lượng phải xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng mới khách quan
và chính xác được. Mỗi sản phẩm được đặc trưng bởi các tính chất, đặc điểm là những đặc
tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó.
Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản
phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị bởi các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định có thể đo lường
đánh giá được. Vì vậy nói đến chất lượng sản phẩm phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ
tiêu, tiêu chuẩn cụ thể, Đặc điểm này khẳng định những quan điểm sai lầm cho rằng chất
lượng sản phẩm là cái không thể đo lường, đánh giá được. Hệ thống chỉ tiêu đó bao gồm:
- Chỉ tiêu nội dung: đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng chủ yếu mà sản
phẩm phải thực hiện và quy định những việc sử dụng sản phẩm đó, trong đó chia thành:
- Chỉ tiêu phân loại: Chỉ rõ sản phẩm được xếp vào một nhóm nhất định nào đó.
- Chỉ tiêu chức năng: Đặc trưng cho hiệu quả sử dụng sản phẩm và tính tiên tiến của các
giải pháp kỹ thuật đưa vào sản phẩm.
- Chỉ tiêu kích thước; kết cấu, thành phần cấu tạo: Đặc trưng cho các giải pháp thiết kế cơ
bản, sự thuận tiện, khả năng tổ hợp hoá.
- Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho tính chất của sản phẩm luôn giữ được khả năng làm
việc trong một khoảng thời gian nhất định.
- Chỉ tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa người và sản phẩm bao gồm các chỉ
tiêu: vệ sinh, nhân chủng, sinh lý của con người liên quan đến quá trình sản xuất và sinh
hoạt.
- Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức và sự hài hoà về
kết cấu, sự hoàn thiện với sản xuất và độ ổn định của hàng hoá.
Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trình chế tạo, đảm bảo tiết kiệm lớn nhất các chi
phí.
- Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đặc trưng cho mức độ sử dụng trong sản phẩm, các bộ phận
được tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá và mức độ thống nhất với các sản phẩm khác.
- Chỉ tiêu dễ vận chuyển: Đặc trưng cho sự thích ứng đối với việc vận chuyển, đặc trưng
cho các công việc chuẩn bị và kết thúc liên quan đến vận chuyển, cụ thể là chi phí trung
bình để vận chuyển một đơn vị sản phẩm.
- Chỉ tiêu an toàn: Đặc trưng cho tính đảm bảo an toàn cho người sản xuất và sử dụng.
- Chỉ tiêu về phát minh, sáng chế: Đặc trưng cho khả năng giữ bản quyền.
- Chỉ tiêu tuổi thọ: Đặc trưng cho thời gian sử dụng của sản phẩm.
- Chỉ tiêu về chi phí, giá cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm.
Các chỉ tiêu này không tồn tại độc lập, tách rời mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vai trò, ý nghĩa của từng chỉ tiêu rất khác nhau đối với mỗi sản phẩm khác nhau.
Mỗi loại sản phẩm cụ thể sẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn
những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan
trọng nhất làm cho sản phẩm của mình mang sắc thái riêng, phân biệt với những sản phẩm
đồng loại trên thị trường. Hiện nay một sản phẩm được coi là có chất lượng cao ngoài các
chỉ tiêu an toàn đối với người sử dụng và xã hội, môi trường ngày càng quan trọng, trở
thành bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt những là sản phẩm có ảnh hưởng trực
tiếp đối với sức khoẻ và cuộc sống của con người.
Để sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu
chuẩn chất lượng sản phẩm, phải đăng ký và được các cơ quan quản lý chất lượng sản
phẩm Nhà nước ký duyệt. Tuỳ theo từng loại sản phẩm, từng điều kiện của doanh nghiệp
mà xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
phải đạt mức chất lượng đã đăng ký, đó là cơ sở kiểm tra, đánh giá, sản phẩm sản xuất.
III. Những nhân tố tác động đến chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Có thể chia
thành hai nhóm chủ yếu:
1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp.
* Lực lượng lao động trong doanh nghiệp:
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng. Dù trình độ công nghệ hiện
đại tới đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động đến chất
lượng, các hoạt động chất lượng sản phẩm và các hoạt động dịch vụ. Trình độ chuyên
môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp,
khả năng thích ứng với sự thay đổi nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh
nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Quan tâm đầu tư phát triển và không
ngừng nâng cao nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các
doanh nghiệp. Đó cũng là con đường quan trọng nhất nâng các khả năng cạnh tranh về
chất lượng của mỗi quốc gia.
* Khả năng về công nghệ, máy móc, thiết bị của doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác
động mạnh mẽ nhất đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi
doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, tình hình bảo
dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ, đặc biệt
là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng loạt. Trình
độ công nghệ của các doanh nghiệp không thể tách rời trình độ công nghệ trên Thế giới.
Muốn sản phẩm có chất lượng cao, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị
trường quốc tế mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp cho phép sử dụng
những thành tựu khoa học công nghệ của Thế giới, đồng thời khai thác tối đa nguồn công
nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với chi phí hợp lý.
* Vật tư nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo nguyên vật liệu của doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu là một yếu tố tham gia trực tiếp vào việc cấu thành nên sản phẩm.
Những đặc tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản phẩm, vì vậy chất lượng nguyên liệu
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có chất lượng cao từ
nguyên liệu có chất lượng tồi. Chủng loại, cơ cấu, tính đồng bộ và chất lượng nguyên liệu
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập được hệ thống cung ứng nguyên liệu thích
ứng tạo trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, tạo hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau giữa
người sản xuất và người cung ứng đảm bảo khả năng tổ chức cung ứng đầy đủ kịp thời,
chính xác đúng nơi cần thiết.
* Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
Trình độ quản trị nói chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một trong
những nhân tố cơ bản góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến hoàn thiện chất lượng sản phẩm
của các doanh nghiệp, các chuyên gia quản trị chất lượng đồng tình cho rằng trong thực tế
có tới 80 % những vấn đề về chất lượng là do quản trị gây ra. Vì vậy nói đến quản trị chất
lượng ngày nay người ta cho rằng trước hết đó là chất lượng của quản trị. Các yếu tố sản
xuất như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và người lao động dù ở
trình độ cao nhưng nếu không biết tổ chức quản lý hợp lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ, nhịp
nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất thì không thể tạo ra được sản phẩm
có chất lượng cao được. Thậm chí trình độ quản lý tồi còn làm giảm sút chất lượng sản
phẩm, gây lãng phí nguồn lực sản xuất dẫn đến giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chất
lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị, nhận thức, hiểu biết về
chất lượng và trình độ chất lượng của cán bộ quản trị, Khả năng xác định chính xác mục
tiêu, chính sá