Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) có vai
trò rất quan trọng trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế ở nước ta, góp
phần không nhỏ đối với việc tăng trưởng kinh tế, ngoài việc cung cấp các sản phẩm
hàng hóa cho nhu cầu thị trường còn xuất khẩu nhiều mặt hàng sang các nước trong
khu vực và trên thế giới như: hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ cao cấp, hàng nông lâm
sản như hạt tiêu, hạt điều, thủy sản đông lạnh. Vì thế, phát triển DNV&N đang là
vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ
trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Các DNV&N đang ngày càng có vai trò
quan trọng và trở thành động lực phát triển kinh tế. Đặc biệt là khi nước ta bước vào
hội nhập từ một nền kinh tế chưa phát triển.
Nghiên cứu về mối quan hệ tín dụng với ngân hàng, các DNV&N được coi là
nhóm khách hàng có nhiều lợi thế của các tổ chức tín dụng, là bạn hàng cùng kinh
doanh giữa một bên là sản xuất hàng hóa, kinh doanh thương mại và dịch vụ, và một
bên là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Nhưng việc đầu tư cho loại
hình doanh nghiệp này thường có độ rủi ro cao và chi phí giao dịch lớn. Do vậy các
ngân hàng vẫn nhìn nhận DNV&N là khách hàng có nhiều rủi ro nên họ rất thận
trọng trong cho vay. Mặt khác, trong những năm gần đây, cùng với sự ra tăng về số
lượng của các DNV&N là xu hướng mở rộng đầu tư tín dụng đối với loại hình
doanh nghiệp này của các ngân hàng. Do đó hoạt động quản lý tín dụng cũng cần
phải được tăng cường, đổi mới về phương pháp nhằm phòng tránh những rủi ro
không đáng có, tránh thiệt hại cho ngân hàng.
Vì lý do đó, em đã lựa chọn đề tài: “ Một số giải pháp tăng cường quản lý
hoạt động cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng Công Thương ( NHCT) chi
nhánh tỉnh Hà Tây”.
86 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2424 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường quản lý hoạt động cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng Công Thương ( NHCT) chi nhánh tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp tăng cường quản lý hoạt động
cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng Công
Thương ( NHCT) chi nhánh tỉnh Hà Tây
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) có vai
trò rất quan trọng trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế ở nước ta, góp
phần không nhỏ đối với việc tăng trưởng kinh tế, ngoài việc cung cấp các sản phẩm
hàng hóa cho nhu cầu thị trường còn xuất khẩu nhiều mặt hàng sang các nước trong
khu vực và trên thế giới như: hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ cao cấp, hàng nông lâm
sản như hạt tiêu, hạt điều, thủy sản đông lạnh. Vì thế, phát triển DNV&N đang là
vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ
trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Các DNV&N đang ngày càng có vai trò
quan trọng và trở thành động lực phát triển kinh tế. Đặc biệt là khi nước ta bước vào
hội nhập từ một nền kinh tế chưa phát triển.
Nghiên cứu về mối quan hệ tín dụng với ngân hàng, các DNV&N được coi là
nhóm khách hàng có nhiều lợi thế của các tổ chức tín dụng, là bạn hàng cùng kinh
doanh giữa một bên là sản xuất hàng hóa, kinh doanh thương mại và dịch vụ, và một
bên là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Nhưng việc đầu tư cho loại
hình doanh nghiệp này thường có độ rủi ro cao và chi phí giao dịch lớn. Do vậy các
ngân hàng vẫn nhìn nhận DNV&N là khách hàng có nhiều rủi ro nên họ rất thận
trọng trong cho vay. Mặt khác, trong những năm gần đây, cùng với sự ra tăng về số
lượng của các DNV&N là xu hướng mở rộng đầu tư tín dụng đối với loại hình
doanh nghiệp này của các ngân hàng. Do đó hoạt động quản lý tín dụng cũng cần
phải được tăng cường, đổi mới về phương pháp nhằm phòng tránh những rủi ro
không đáng có, tránh thiệt hại cho ngân hàng.
Vì lý do đó, em đã lựa chọn đề tài: “ Một số giải pháp tăng cường quản lý
hoạt động cho vay đối với DNV&N tại ngân hàng Công Thương ( NHCT) chi
nhánh tỉnh Hà Tây”.
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
- Lý giải tính tất yếu của hoạt động quản lý cho vay đối với DNV&N tại các
ngân hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng quản lý cho vay DNV&N tại chi nhánh NHCT tỉnh Hà
Tây.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý hoạt động cho vay DNV&N tại
chi nhánh NHCT tỉnh Hà Tây.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: hoạt động quản lý cho vay DNV&N tại
chi nhánh NHCT tỉnh Hà Tây.
- Phạm vi nghiên cứu:
Quan hệ tín dụng của chi nhánh NHCT tỉnh Hà Tây với các DNV&N.
Thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến năm 2007.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Bài viết đã sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp biểu đồ, phân tích và
đánh giá.
4. Nội dung bài viết.
Bài viết gồm có ba phần : lời mở đầu, phần thân bài, phần kết luận. Phần thân
bài được bố cục gồm ba chương:
- Chương I. Lý luận cơ bản về quản lý hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại.
- Chương II. Thực trạng quản lý hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng Công Thương tỉnh Hà Tây.
- Chương III. Một số giải pháp tăng cường quản lý hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng Công Thương tỉnh Hà Tây.
Để có thể hoàn thành được bài viết, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
tận tình của thầy giáo GS.TS. Đàm Văn Nhuệ và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô
chú, anh chị tại chi nhánh ngân hàng Công Thương tỉnh Hà Tây đã giúp đỡ em rất
nhiều trong thời gian thực tập vừa qua.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
1.1.1.Đặc điểm, vai trò của DN&VN trong sự phát triển kinh tế quốc gia.
1.1.1.1.Khái niệm DNV&N.
Doanh nghiệp có thể được hiểu một cách chung nhất là một tổ chức kinh tế
được thành lập nhằm sản xuất, cung ứng sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn tại,
phát triển và cạnh tranh lẫn nhau.Tuy nhiên để thuận lợi cho việc quản lý, hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển người ta thường phân chia các doanh nghiệp thành các loại
hình doanh nghiệp khác nhau, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ở hầu hết các nước, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển thì việc đầu
tư phát triển các DNV&N đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Sự thành đạt về
kinh tế- xã hội của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các doanh
nghiệp, trong khi đó các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ lại có ý nghĩa vô cùng
quan trọng ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường. Tuy nhiên, theo điều kiện
của từng quốc gia, từng loại hình sản phẩm và ý đồ chính sách, khả năng hỗ trợ của
từng chính phủ ở từng thời kỳ…mà có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về
DN&VN. Trong thực tế, việc xác định DNV&N của một nước thường được cân
nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế -xã hội, tình hình việc làm nói chung
trong cả nước và tính chất phát triển kinh tế hiện hành của nước đó. Như vậy, việc
xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ không có tính chất “ cố định” mà có xu hướng
thanh đổi theo tính chất hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ
phát triển doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn để xác định DNV&N là: tổng vốn đầu tư được huy động vào sản
xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên, giá
trị bằng tiền của sản phẩm bán hoặc dịch vụ, lợi nhuận , vốn bình quân cho một lao
động…
Đối với nước ta, mặc dù đã quan tâm đến DNV&N và có nhiều hoạt động hỗ trợ
nó, song vẫn chưa có khái niệm chính thức. Các chuyên gia kinh tế thì cho rằng :
“doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có mức vốn đầu tư từ 100-300 triệu đồng và từ 5 -
50 lao động. Doanh nghiệp vừa là những doanh nghiệp có mức vốn đầu tư 300 triệu
đồng trở lên và có lao động trên 50 người’.
Ngoài ra, ngân hàng Công Thương Việt Nam cũng đã nhận định rằng: “ doanh
nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có số lao động thường xuyên dưới 500
người, giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, số vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và
doanh thu dưới 20 tỷ đồng/ năm”.
Có thể thấy rằng, việc đưa ra tiêu chí để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ mới
chỉ mang tính ước lệ Có nhiều quan điểm khác nhau về các đối tượng, chủ thể kinh
tế được coi là thuộc hoặc không thuộc khu vực DNV&N. Theo Nghị Định của
Chính Phủ số 90/2001/NĐ- Chính Phủ ngày 23 tháng 11 năm 2001 thì “doanh
nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người”. Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao
gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp nhà
nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo nghị định số 02/2000 NĐ-CP ngày 3
tháng 2 năm 2000 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.
1.1.1.2.Vai trò của DNV&N trong nền kinh tế.
Tuy có nhiều tiêu chí, cách xác định, đánh giá khác nhau trong các nước song
tất cả đều cho rằng DNV&N là xương sống của nền kinh tế, có vị trí và vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế và đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội của Quốc gia. Ở nước ta, qua mười năm đổi mới, nền kinh tế đã thu
được những thành tựu đáng khích lệ, trong đó sự đóng góp của DNV&N là đáng kể,
các doanh nghiệp này có vai trò hết sức quan trọng đối với việc ổn định phát triển
kinh tế, xã hội, đặc biệt là đối với sự phát triển kinh tế địa phương.
a.Cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền kinh tế.
Các DNV&N có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế, góp phần làm
tăng thu nhập quốc dân. Theo đánh giá của viện nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ thì
hiện nay khu vực DNV&N của cả nước chiếm khoảng 25% - 26% GDP. Năm 1993,
các DNV&N đã tạo ra được khoảng 25% giá trị tổng sản lượng ngành công nghiệp
và 54% giá trị công nghiệp địa phương, tăng 11% so với năm 1992 và tăng 63% so
với năm 1990. Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt hơn 29.000 tỷ đồng, bằng 78% tổng
mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa. Trong nhiều nghành nghề như
gỗ xẻ, chiếu cói, giầy dép… DNV&N sản xuất 100% sản phẩm. Nhiều nghành nghề
truyền thống được khôi phục và phát triển đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu.
Hiện nay, các DNV&N chiếm khoảng 90% tổng số hơn 230.000 doanh nghiệp
trên toàn quốc. Tỷ trọng GDP cung cấp cho nền kinh tế của các DNV&N có xu
hướng ngày càng tăng lên. Nếu năm 1999 tỷ trọng GDP của các DNV&N chỉ chiếm
8,01%, năm 2002 chiếm 9,02%, đến năm 2004 tỷ lệ này khoảng 24%-25% và năm
2006 tỷ trọng đóng góp khoảng 26% GDP.
b.Tạo việc làm cho người lao động và tăng thu nhập của dân cư.
Để thấy rõ vai trò giải quyết việc làm của các DNV&N, chúng ta xem tỷ trọng
lao động lao động ở một vài nước.
Các doanh nghiệp DNV&N ở Đài Loan đã đóng vai trò quan trọng về tạo
việc làm và mở rộng xuất khẩu; DNV&N chiếm 97% tổng số doanh nghiệp, con số
tương ứng của các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và Mỹ là 98%. Mặc dù
số lượng của các DNV&N của Đài Loan thấp hơn, nhưng điều không bình thường là
nó tạo ra tỷ lệ việc làm và kim ngạch xuất khẩu cao hơn Hàn Quốc và Hồng Kông.
Cụ thể là nó đã tạo ra được 66,4% tổng sản phẩm xuất khẩu của ngành gia công chế
biến và 6,39 triệu việc làm chiếm 78,7% tổng số việc làm năm. Tỷ lệ này đã bị giảm
xuống còn 70% những năm đầu thập kỷ 90.
Các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển có số lượng các doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chiếm khoảng 97%- 98% tổng số doanh nghiệp trong
cả nước, giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động công nghiệp từ (
62%- 76%).
Việc làm là vấn đề cấp bách ở Việt Nam. Với tốc độ tăng dân số trên 2%, hàng
năm cả nước có thêm một triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu việc làm. Đó là
chưa kể những người thất nghiệp và bán thất nghiệp hiện nay do cơ cấu lại nền kinh
tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Trong điều kiện như vậy, các DNV&N
đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có vai trò quan trọng trong việc
thu hút lao động. Tính đến tháng 8/1993, cả nước có 7000 doanh nghiệp nhà nước,
6728 doanh nghiệp tư nhân, 2750 công ty trách nhiệm hữu hạn, 91 công ty cổ phần,
và khoảng 638 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động, tổng cộng có
17.027 doanh nghiệp. Trong đó có 96,5% là DNV&N, đã giải quyết việc làm cho
gần 2 triệu lao động. Năm 2002, cả nước tạo ra được 1,42 triệu việc làm mới thì
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thu hút được 79,1% tổng số việc làm. Hàng
năm khu vực doanh nghiệp này thu hút hàng chục vạn lao động, góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội của đất nước. Theo số liệu ước tính năm 2006 khu vực DNV&N
tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và chiếm khoảng 25%-
26% lực lượng lao động trong cả nước. Tuy nhiên, do khu vực sản xuất nông nghiệp
ỏ nông thôn vẫn chiềm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế nên xem xét tổng
thể thì tổng số lao trong các DNV&N chiếm tỷ trọng chưa cao trong tổng số lao
động xã hội hiện nay.
Đặc điểm của nước ta là một nước là một nước nông nghiệp, năng suất sản xuất
cũng như thu nhập của dân cư thấp. Việc phát triển các DNV&N ở thành thị cũng
như ở nông thôn là phương hướng cơ bản nhằm tăng nhanh năng suất, tăng nhanh
thu nhập, và đa dạng hóa thu nhập của dân cư. Kết quả điều tra cho thấy tại những
vùng có doanh nghiệp phát triển thì thu nhập gấp 4 lần thu nhập của dân cư tại
những vùng thuần nông nghiệp. Điều quan trọng là thu nhập của dân cư được đa
dạng hóa vừa có ý nghĩa nâng cao mức sống dân cư, vừa làm cho cuộc sống giảm
bớt rủi ro hơn nhất là tại những vùng thiên tai.
c.Thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế.
Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng doanh nghiệp.
Nhờ có vốn mới kết hợp được các yếu tố lao động, đất đai, công nghệ và quản lý.
Thực tế cho thấy, để đầu tư cho một chỗ làm ở Việt Nam, trung bình phải mất 5-10
triệu đồng. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm
trọng, trong khi đó vốn trong dân còn tiềm ẩn nhưng huy động được chưa nhiều. Có
nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do môi trường đầu tư không ổn định và không
được thuận lợi. Trong tình hình đó thì chính các DNV&N là người trực tiếp tiếp xúc
với người cho vay, gây được niềm tin nên có thể huy động vốn, hoặc chính người có
tiền đứng ra đầu tư kinh doanh.
Hiện nay Nhà nước có chủ trương bán, khoán, cho thuê và cổ phần hóa các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Chủ trương này có tác dụng thúc đẩy hoạt
động đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi người dân bằng việc
mua lại các doanh nghiệp, mua cổ phần hoặc thành lập DNV&N mới.
Trong năm 2002, riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.600 doanh
nghiệp được thành lập với tổng số vốn đăng ký trên 12.550 tỷ đồng, tăng 11% về số
lượng doanh nghiệp và 16% về vốn so với năm 2001, trong đó doanh nghiệp tư
nhân là 1.760 với số vốn đăng ký là 915 tỷ đồng; 5.200 công ty trách nhiệm hữu hạn
và vốn đăng ký trên 7.600 tỷ đồng; 604 công ty cổ phần với số vốn đăng ký trên
4000 tỷ đồng. Qua đó có thể thấy các DNV&N đã thu hút được khá nhiều các khoản
tiết kiệm trong dân cư.
Tính riêng năm 2002, đầu tư khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 28,8% tổng
vốn đầu tư trong toàn xã hội; trong tổng số 2.808 dự án được cấp giấy phép ưu đãi
đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước đã có 2.225 dự án thuộc khu vực
kinh tế tư nhân, với tổng số vốn thực hiện trên 16.244 tỷ đồng, chiếm 38,7% tổng
vốn đầu tư thực hiện, thu hút 234.899 lao động.
Tính đến cuối tháng 12 năm 2004 số doanh nghiệp thực tế hoạt động sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế ( không bao gồm các hợp tác xã nông lâm,
ngư và hộ kinh doanh cá thể) là 91.755 doanh nghiệp, trong đó nếu xét theo tiêu chí
lao động thì có 88.233 DNV&N, nếu xét theo tiêu chí vốn thì có 79.420 doanh
nghiệp.
Đến tháng 6/2005, cả nước đã có trên 125 nghìn doanh nghiệp thành lập với
tổng vốn đăng ký hơn 240.000 tỷ đồng, đưa tổng số doanh nghiệp cả nước lên đến
gần 190.000 doanh nghiệp với số vốn đăng ký trên 398.000 tỷ đồng.Riêng Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 52% số doanh nghiệp thành lập mới với
50% tổng số vốn đăng ký so với cả nước.
d.Hoạt động của các DNV&N góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt
hiệu quả kinh tế cao.
Vì số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày một tăng lên, làm tăng tính
cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng
và chủng loại hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Mặt khác, các doanh nghiệp này
có khả năng thay đổi về mặt hàng, công nghệ, và chuyển hướng kinh doanh nhanh
làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các DNV&N có tác dụng hỗ trợ
cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn: làm đại lý, làm vệ tinh cho
các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa và cung cấp các đầu vào, thâm nhập
vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn không vào được.
Mặt khác, vốn của các DNV&N, trong phần lớn là của khu vực kinh tế tư nhân
chủ yếu chỉ đầu tư vào những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Vì thế sự gia tăng
các cơ sở này sẽ làm cho hiệu quả kinh tế của đất nước tăng nhanh. Tuy nhiên nếu
doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ thì thì hiệu quả kinh tế khó tăng nhanh được.
e.Khai thác tiềm năng phong phú trong dân và có khả năng tận dụng các
nguồn lực xã hội.
Có rất nhiều tiềm năng trong dân cư chưa được khai thác triệt để như: trí tuệ,
lao động, vốn, bí quyết tay nghề, điều kiện tự nhiên, …Việc phát triển các doanh
nghiệp sản xuất, các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong
những hướng quan trọng để xử dụng tay nghề tinh xảo, thu hút lao động trong nông
thôn, phát huy lợi thế của từng vùng.
Về tiềm năng vốn, các DNV&N thường bắt đầu bằng nguồn vốn ít ỏi, hạn hẹp
của các cá nhân. Do đó nên các doanh nghiệp này dễ được đông đảo nhân dân tham
gia hoạt động, vì thế thu hút được nguồn vốn trong dân vào sản xuất kinh doanh.
Ước tính trên 400.000 doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đã thu
hút khoảng 25.000 tỷ đồng, chưa kể hàng nghìn tỷ đồng nhàn rỗi khác phục vụ cho
nhu cầu về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp.
Về lao động, DNV&N thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của dân cư, sử dụng nhiều lao động, ít vốn, với chi phí thấp, do
vậy lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, chỉ cần bồi dưỡng ngắn
hạn là có thể tham gia vào sản xuất của doanh nghiệp.
Về kỹ thuật, DNV&N thường lựa chọn các kỹ thuật phù hợp với trình độ lao
động khả năng về vốn, kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật đơn giản mà mọi
người có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất, ít sử dụng kỹ thuật
tiên tiến hiện đại, do đó phần lớn trang thiết bị đều là các sản phẩm trong nước.
Về nguyên vật liệu, nguồn nguyên vật liệu được sử dụng ở các DNV&N chủ yếu
là thuộc phạm vi địa phương, dễ khai thác, qua đó cũng tạo điều kiện việc làm trong
khu vực, rất ít các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại.
f. DNV&N góp phần to lớn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có tác
dụng quan trọng đối với quá trình CNH_HĐH đất nước.
Việc phát triển các DNV&N có ý nghĩa lớn trong việc phát triển công nghiệp
và dịch vụ ở nông thôn, xóa dần tình trạng thuần nông và độc canh. Do đó góp phần
thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp
phát triển mạnh, thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ phát triển, việc phân bổ
các doanh nghiệp hợp lý hơn về mặt lãnh thổ cả nông thôn, thành thị, miền núi và
đồng bằng:
- Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng
lên nhanh chóng, các doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại, kinh doanh có hiệu
quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
- Cơ cấu ngành: phát triển nhiều ngành nghề đa dạng, phong phú cả ngành
nghề hiện đại và truyền thống theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
Ngoài ra các DNV&N còn có vai trò gieo mầm cho tài năng kinh doanh. Đây
là vấn đề rất quan trọng đối với nước ta, vì trong nhiều năm qua đội ngũ kinh doanh
gắn liền với cơ chế bao cấp, chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường. Sự phát
triển của các DNV&N có tác dụng đào tạo, thử thách, có chọn lọc qua thực tế đội
ngũ các nhà kinh doanh trên mặt trận sản xuất sản xuất, kinh doanh.
1.1.2.Những lợi thế và hạn chế của DNV&N.
1.1.2.1 Lợi thế của các DNV&N.
Các DNV&N có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thỏa mãn nhu cầu có
hạn trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động
với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh chóng thích
nghi với những nhu cầu và thay đổi của thị trường, DNV&N có thể bước vào thị
trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn và sẵn sàng phục
vụ ở những nơi xa nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường. Sau đây là
một số điểm mạnh có thể nhìn thấy ở các DNV&N:
Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường. Chỉ cần một
lượng vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp các DNV&N có thể khởi sự
doanh nghiệp.
Dễ phát huy bản chất hợp tác.
Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp.
Không có hoặc có ít xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao
động.
Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh.
Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước.
Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng.
Nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp.
Là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế ban
đầu để phát triển các doanh nghiệp lớn.
1.1.2.