Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội (CNXH) và theo lý
luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quỏ độ vận dụng vào kinh tế, có phải
nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản (CNTB) lẫn
CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không phải bất cứ ai
cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xó
hội hiện cú ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả vấn đề lại chính là ở đó.
Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đó chủ trương xây dựng
một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN. Đó là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển
khách quan, bởi thông qua chủ trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các
thành kinh tế mới hỡnh thành được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân
tán trong các tầng lớp dân cư,do đó mà huy động được tối đa của cải vật chất
trong xó hội để xây dựng đất nước. Từ khi có chính sách đổi mới (1986) đến nay,
các thành phần kinh tế đó đóng góp nhất định của mỡnh vào xõy dựng vào nền
kinh tế quốc dõn, thỳc đẩy sự phát triển của đất nước,qua so sánh giữa hai thời kỳ
kinh tế (Kinh tế cũ kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hóa) ta thấy một bước
phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta .
Tuy nhiờn, theo lý luận Mac: ”Trong bất cứ hỡnh thỏi kinh tế xó hội nào
cũng cú phương thức sản xuất (PTSX) giữ vị trí chi phối”. Có nghĩa là trong mỗi
chế độ xó hội cần cú một thành phần kinh tế giữ vai trũ chủ đạo, có nghĩa là trong
mỗi chế độ XHCN cần có một thành phần kinh tế giữ vai trũ chủ đạo, dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác đi theo một định hướng xó hội nhất định. Ngay từ đầu lập
nước, đảng ta đó xỏc định đưa nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xó hội, mà cơ sở
hỡnh thành nên CNXH đó chính là chế độ công hữu về tư liệu sản suất (TLSX),
tức là TLSX thuộc sở hữu toàn dân. Kinh tế nhà nước (KTNN) là thành phần kinh
tế được hỡnh thành trờn hỡnh thức sở hữu toàn dõn vỡ vậy một tất yếu khỏch quan
là KTNN phải là thành phần kinh tế nắm vai trũ chủ đạo nhằm hướng toàn bộ nền
kinh tế đi theo định hướng XHCN.
Đảng và nhà nước ta đó xỏc định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH đũi hỏi một
thời gian rất lõu dài và sẽ gặp nhiều khú khăn thách thức đặc biệt Việt Nam lại đi
lên từ chế độ phong kiến bỏ qua chế độ TBCN. Ta biết rằng “chính trị là tập trung
của kinh tế”, do đó kinh tế là con đường để hỡnh thành một thể chế chớnh trị. Ta
định hướng xây dựng CNXH thỡ phải phỏt triển thành phần kinh tế nhà nước thật
vững chắc ,làm sao để nó thể hiện vai trũ chủ đạo của KTNN, nắm được quy luật
vận động khách quan của kinh tế để từ đó có cách tác động để KTNN thể hiện
được vai trũ trọng yếu của nú, để đất nước ta đi đúng theo định hướng đó chọn.
Việc nhiờn cứu (NC), tỡm hiểu rồi đến nắm bắt bản chất cũng như vai trũ của
KTNN sẽ giỳp mỗi chỳng ta thấy được tầm quan trọng, tính thiết yếu phải phát
triển KTNN ở nước ta hiện nay nhận thức được những đường lối, chính sách phát
triển mà đảng và chính phủ đưa ra nhằm cải tổ và xây dựng nền kinh tế XHCN
tiến kịp với thế giới, nhưng cũng đồng thời thôi thúc mỗi chúng ta cần phải góp
sức mỡnh vào cụng cuộc đất nước bằng cách dựa trên những gỡ mà ta đó đạt
được và chưa làm được để đưa ra những giải pháp kiến nghị hữu ích cho việc đưa
KTNN lên nắm vai trũ chủ đạo cũng là để xây dựng nền kinh tế nước nhà ổn định,
phát triển và bền vững.
Đồ án của tôi sẽ đi sâu vào NC về một số vấn đề sau:
Phần I: Khát quát về một số vấn đề lý luận về KTNN, vai trũ chủ đạo của
KTNN, giải thích vỡ sao sự hỡnh thành KTNN là một tất yếu và sự cần thiết của
vai trũ chủ đạo của KTNN trong chế độ của chúng ta hiện nay.
Phần II: Thực trạng về vấn đề đưa KTNN giữ vai trũ chủ đạo trong nền kinh
tế ở nước ta hiện nay đó đạt được thành quả gỡ và cũn những tồn tại, yếu kộm nào
cần khắc phục - nguyên nhân của thực trạng đó.
Phần III: Một số giải phỏp và kiến nghị nhằm phỏt huy những gỡ đó đạt
được ,khắc phục những hạn chế ,thiếu sót trong việc đưa KTNN lên nắm vai trũ
chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
34 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1925 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng về vấn đề đưa KTNN giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế ở nước ta hiện
nay đó đạt được thành quả gì và những
tồn tại, yếu kém nào cần khắc phục -
nguyên nhân của thực trạng đó
MỞ ĐẦU
Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội (CNXH) và theo lý
luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quỏ độ vận dụng vào kinh tế, có phải
nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản (CNTB) lẫn
CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không phải bất cứ ai
cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xó
hội hiện cú ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả vấn đề lại chính là ở đó.
Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đó chủ trương xây dựng
một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN. Đó là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển
khách quan, bởi thông qua chủ trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các
thành kinh tế mới hỡnh thành được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân
tán trong các tầng lớp dân cư,do đó mà huy động được tối đa của cải vật chất
trong xó hội để xây dựng đất nước. Từ khi có chính sách đổi mới (1986) đến nay,
các thành phần kinh tế đó đóng góp nhất định của mỡnh vào xõy dựng vào nền
kinh tế quốc dõn, thỳc đẩy sự phát triển của đất nước,qua so sánh giữa hai thời kỳ
kinh tế (Kinh tế cũ kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hóa) ta thấy một bước
phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta .
Tuy nhiờn, theo lý luận Mac: ”Trong bất cứ hỡnh thỏi kinh tế xó hội nào
cũng cú phương thức sản xuất (PTSX) giữ vị trí chi phối”. Có nghĩa là trong mỗi
chế độ xó hội cần cú một thành phần kinh tế giữ vai trũ chủ đạo, có nghĩa là trong
mỗi chế độ XHCN cần có một thành phần kinh tế giữ vai trũ chủ đạo, dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác đi theo một định hướng xó hội nhất định. Ngay từ đầu lập
nước, đảng ta đó xỏc định đưa nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xó hội, mà cơ sở
hỡnh thành nên CNXH đó chính là chế độ công hữu về tư liệu sản suất (TLSX),
tức là TLSX thuộc sở hữu toàn dân. Kinh tế nhà nước (KTNN) là thành phần kinh
tế được hỡnh thành trờn hỡnh thức sở hữu toàn dõn vỡ vậy một tất yếu khỏch quan
là KTNN phải là thành phần kinh tế nắm vai trũ chủ đạo nhằm hướng toàn bộ nền
kinh tế đi theo định hướng XHCN.
Đảng và nhà nước ta đó xỏc định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH đũi hỏi một
thời gian rất lõu dài và sẽ gặp nhiều khú khăn thách thức đặc biệt Việt Nam lại đi
lên từ chế độ phong kiến bỏ qua chế độ TBCN. Ta biết rằng “chính trị là tập trung
của kinh tế”, do đó kinh tế là con đường để hỡnh thành một thể chế chớnh trị. Ta
định hướng xây dựng CNXH thỡ phải phỏt triển thành phần kinh tế nhà nước thật
vững chắc ,làm sao để nó thể hiện vai trũ chủ đạo của KTNN, nắm được quy luật
vận động khách quan của kinh tế để từ đó có cách tác động để KTNN thể hiện
được vai trũ trọng yếu của nú, để đất nước ta đi đúng theo định hướng đó chọn.
Việc nhiờn cứu (NC), tỡm hiểu rồi đến nắm bắt bản chất cũng như vai trũ của
KTNN sẽ giỳp mỗi chỳng ta thấy được tầm quan trọng, tính thiết yếu phải phát
triển KTNN ở nước ta hiện nay nhận thức được những đường lối, chính sách phát
triển mà đảng và chính phủ đưa ra nhằm cải tổ và xây dựng nền kinh tế XHCN
tiến kịp với thế giới, nhưng cũng đồng thời thôi thúc mỗi chúng ta cần phải góp
sức mỡnh vào cụng cuộc đất nước bằng cách dựa trên những gỡ mà ta đó đạt
được và chưa làm được để đưa ra những giải pháp kiến nghị hữu ích cho việc đưa
KTNN lên nắm vai trũ chủ đạo cũng là để xây dựng nền kinh tế nước nhà ổn định,
phát triển và bền vững.
Đồ án của tôi sẽ đi sâu vào NC về một số vấn đề sau:
Phần I: Khát quát về một số vấn đề lý luận về KTNN, vai trũ chủ đạo của
KTNN, giải thích vỡ sao sự hỡnh thành KTNN là một tất yếu và sự cần thiết của
vai trũ chủ đạo của KTNN trong chế độ của chúng ta hiện nay.
Phần II: Thực trạng về vấn đề đưa KTNN giữ vai trũ chủ đạo trong nền kinh
tế ở nước ta hiện nay đó đạt được thành quả gỡ và cũn những tồn tại, yếu kộm nào
cần khắc phục - nguyên nhân của thực trạng đó.
Phần III: Một số giải phỏp và kiến nghị nhằm phỏt huy những gỡ đó đạt
được ,khắc phục những hạn chế ,thiếu sót trong việc đưa KTNN lên nắm vai trũ
chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về KTNN:
1. Một số khái quát chung về KTNN:
1.1 Khái niệm chung về thành phần KTNN:
Để hiểu đầy đủ về thành phần KTNN, trước hết ta phải tỡm hiểu thành phần
kinh tế nhà nước là gỡ và thành phần KTNN xuất hiện ở nước ta khi nào.
Là một nước đi sau trong tiến trỡnh xõy dựng CNXH, chỳng ta được học hỏi
rất nhiều kinh nghiệm từ những nước đi trước mà tiên phong là Nga (Liên Xô cũ).
Từ luận điển Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ - đó phải là nền kinh tế
nhiều thành phần. Đảng và nhà nước ta đó ỏp dụng vào thực tiển ở nước ta và đưa
ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa phần mang tính đặc trưng của thời kỳ
giao thời giữa kinh tế TBCN và XHCN.
Trước hết ta hiểu thế nào là một thành phần kinh tế? Thành phần kinh tế hay
đơn vị kinh tế hay đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân là một kiểu tổ
chức kinh tế dựa trên một hỡnh thức sở hữu nhất định có quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối riêng của nó. Trong nền kinh tế nước ta có ba hỡnh thức sở hữu cơ
bản là: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ đó mà hỡnh thành
nờn cỏc thành phần kinh tế khỏc nhau.
Thành phần KTNN đó xuất hiện như thế nào trong nền kinh tế Việt Nam? Ta
sẽ trở lại từ những ngày đầu giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào
xó hội mới với một nền kinh tế mới. Đảng ta đó lónh đạo nhân xây dựng đất nước
theo con đường XHCN, thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xó hội cụng
bằng, dõn chủ và văn minh”. Để xây dựng nền chính trị XHCN thỡ đũi hỏi phải cú
nền kinh tế đặc trưng cho hỡnh thỏi chớnh trị ấy - một nền kinh tế cú thành phần
chớnh hỡnh thành trờn chế độ công hữu. Trong lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam
dựa trên chế độ tư hữu, đó là sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ và sở
hữu tư nhân của CNTB. Đối với hỡnh thức này, Nhà nước đó tiến hành cải tổ, sắp
xếp để phát triển thành phần kinh tế cá thể tiểu thủ công nghiệp và thành phần
kinh tế tư bản tư nhân - là đại diện của quan hệ sản xuất cũ CNTB. Vậy để xây
dựng một nền kinh tế mới XHCN, nhà nước đó đầu tư xây dựng các doanh nghiệp
của mỡnh trong cỏc nghành kinh tế, kết quả là hỡnh thành nờn một thành phần
kinh tế mới – KTNN.
Từ đó ta khái niệm được thành phần KTNN là gỡ? Đó là thành phần kinh tế
dựa trên sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước). Việc tổ chức kinh doanh tiến
hành theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế và thực hiện phân phối theo lao động.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của thành phần KTNN với các thành phần kinh tế
khác đó là hỡnh thức sở hữu và nguồn vốn hỡnh thành. Cú thể toàn bộ vốn đều
thuộc sở hữu nhà nước hoặc có thể phần vốn đóng góp của nhà nước chiếm tỷ lệ
khống chế (>50% vốn).
1.2 Phân loại KTNN:
KTNN bao gồm ba thành phần cơ bản đó là: các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), các tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
*Về Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Khái niệm: DNNN là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước hoặc Doanh
nghiệp cổ phần trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối.
Trong ba nhõn tố cấu thành KTNN ở trờn thỡ DNNN là nhõn tố (hay thành
phần) giữ tỷ lệ cao nhất và vai trũ quan trọng nhất trong việc đảm bảo cho KTNN
giữ được vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi đề cập đến vai
trũ chủ đạo của KTNN thỡ người ta thường đề cập đến DNNN là chủ yếu. Ngay
trong nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Hội nghị đó
khẳng định rừ quan điểm “KTNN cú vai trũ quan trọng trong việc giữ vững định
hướng XHCN. DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất
quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nũng cốt,
gúp phần quan trọng để KTNN thực hiện vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN”.
DNNN cũng được chia ra làm hai loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và
hoạt động công ích. Cả hai loại doanh nghiệp này đều mang các đặc điểm của các
thành phần của KTNN và thông thường chúng được chia làm hai loại nhỏ: các
doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% và một loại doanh nghiệp do nhà nước giữ
cổ phần chi phối.
Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là nhằm thu lợi
nhuận.Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn đối
với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước cần
nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
thông thường là những doanh nghiệp có quy mô lớn có đóng góp lớn cho ngân
sách nhà nước, phải luôn luôn đi đầu trong ứng dụng kỹ thuật - công nghệ hiện
đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân.
Cũn cỏc doanh nghiệp hoạt động công ích là những doanh nghiệp hoạt động
không vỡ mục đích lợi nhuận, có thể không có thu mà nhà nước cấp kinh phí - đó
là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hoá công cộng, dịch vụ công như : An
ninh, quốc phũng, giao thụng, giỏo dục, ytế…..
*Về các tổ chức KTNN:
Các tổ chức KTNN là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng quản lý (kiểm
tra, kiểm soỏt) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước, các quỹ dự
trữ quốc gia…các tổ chức này có thể do nhà nước cung cấp 100% vốn hoặc giữ
một phần vốn cố định để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các tổ chức này.
Thành phần này cũng có nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
*Về các tài sản thuộc sở hữu nhà nước:
Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là thành
phần của kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do quuền sở
mang lại như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên,…
2. Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước và vai trũ chủ đạo của kinh tế Nhà
nước trong nền kinh tế
2.1. Sự cần thiết có kinh tế Nhà nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xó hội của
đất nước.
Với mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước từ ngày bắt tay vào xây dựng Chủ
nghĩa xó hội ở miền Bắc cho đến hôm nay, kinh tế Nhà nước đó được hỡnh thành,
phỏt triển với những vcị trí khác nhau trong nền kinh tế nhằm thực hiện những
nhiệm vụ kinh té nhất định của từng giai đoạn. Tuy vậy, trong suốt cả thời kỳ lịch
sử ấy, kinh tế nhà nước luôn luôn là lực lượng chủ đạo, nũng cốt, là cụng cụ duy
nhất để Nhà nước đưa đất nước đi lên theo con đường Xó hội chủ nghĩa(1955).
Sau khi hoà bỡnh lập lại ở miền Bắc(1955), đảng và nhà nước đó chủ trương
xây dựng xó hội chủ nghĩa ở miền Bắc theo cơ chế kế hoạch hoà tập trung bao cấp
để tạo cơ sở ban đầu cho một Nhà nước xó hội chủ nghĩa tương lai khi giải phóng
miền Nam và thống nhất nước nhà. Xuất phát điểm từ một nền kinh tế được xây
dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, vỡ vậy bước đầu tiên khi bắt tay vào
xây dựng chủ nghĩa xó hội là thực hiện cụng cuộc cải tạo xó hội chủ nghĩa với
nhiệm vụ thủ tiêu kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế quốc doanh (Kinh tế quốc dân)
và kinh tế tập thể. Từ đây một loạt các xí nghiệp quốc doanh (XNQD) được ra đời
bằng nhiều cách khác nhau: do Nhà nước đầu tư xây dựng mới, hoặc quốc hữu hoá
các xí nghiệp tư nhân. Đến cuối thời kỳ cải tạo và khôi phục kinh tế, XNQD đó
chiếm ưu thế tuyệt đối trên nền kinh tế quốc dân. Kết quả là kinh tế tư bản tư nhân
bị xóa bỏ để chuyển sang một nền kinh tế mà kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
giữ vị trí độc tôn. Đến năm 1960, kinh tế quốc doanh vươn lên trở thành lực lượng
kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân nước ta lúc bấy giờ. Và với chủ trương
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi lên xó hội chủ nghĩa, kinh tế quốc doanh
được giao cho vai trũ chủ đạo của nền kinh tế từ đây.
Giai đoạn 1960 đến 1985:
Đây là giai đoạn khá dài mà lịch sử đất nước đó trải qua những bước thăng
trầm về chính trị, xó hội và kinh tế.
Từ 1960 đến 1975: Vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ở giai đoạn
này Đảng ta chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá xó hội chủ nghĩa
miền Bắc và đấu tranh giảu phóng miền Nam. Để tiến hành công nghiệp hoá
xó hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý”, và do đó các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư nhiều hơn và
phát triển hơn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là trong ngành công nghiệp
nặng. Một loạt các khu công nghiệp mới được hỡnh thành như: Việt Trỡ, Thỏi
Nguyờn, Vinh, Đông Anh(Hà Nội)… đây là cơ sở để kinh tế quốc doanh được mở
rộng và phân bổ được khắp các vùng kinh tế lớn, nó sẽ làm hạt nhân, là đầu tàu
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Tế quốc doanh trong giai đoạng
này có vai trũ vừa là cụng cụ quan trọng để nhà nước tiến hành công nghiệp hoá
XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm gương phản ánh sự hành công của quá
trỡnh xõy dựng CNXH ở nước ta, nó khẳng định con đường mà Đảng ta đó lựa
chọn là đúng đắn.Trên phương diện chính trị xó hội, thỡ KTQD luụn là lực lượng
tiến bộ xó hội, là đội quân tiên phong trong việc mở rộng QHSX XHCN.
Từ năm 1975 đến 1980: Cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý vẫn được
duy trị. Sau khi thống nhất đất nước. với định hướng đưa cả nước đi lên XHCN,
nhưng có sự chênh lệch giữa hai miền Nam-Bắc, vỡ vậy Đảng ta chủ trương tiếp
tục mở rộng QHSX XHCN và công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc, đồng thời tiến
hành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam. Thi hành chủ trương đó số lượng các
XNQD trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp)
tăng lên một cách nhanh chóng trên khắp cả nước. Mặc dù so với giai đoạn trước
đó sức đóng góp của KTQD trong giai đọan này đó giảm sỳt, song KTQD vẫn
đóng vai trũ chủ đạo, tuyệt đối quan trọng công cuộc xây dựng và phát triển
QHSX mới CNXH.
Từ 1980-1985: Giai đoạn này nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, năng lực sản
xuất của KTQD không được sử dụng tối đa do thiếu vật tư một cách nghiêm trọng.
Với quan điểm định hướng xây dựng CNXH nên KTQD vẫn được nhà nước rất
chú trọng tỡm giải phỏp thỏo gỡ giai đoạn này cơ chế kế hoạch hoá tập trung đó
cải tiến dần sang phi tập trung hoỏ trong quản lý kinh tế, tuy vậy KTQD vẫn giữ
vai trũ quan trọng tuyệt đối, trong sự phát triển kinh tế - xó hội của đất nước, thể
hiện ở chỗ các XNQD vẫn nắm giữ các ngành then chốt như điện, hoá chất, luyện
kim, xi măng…
Giai đoạn từ1986 đến nay:
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đó đưa ra chính sách kinh tế mới làm nên
một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế ở nước ta, đó là chính sách đổi mới
cơ chế kinh tế : xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường
định hướng XHCN. Trong quá trỡnh hỡnh thành cơ chế kinh tế mới, công tác quản
lý KTQD vẫn cũn tiếp tục được cải tiến theo hướng phi tập trung hoá, kế hoạch
hoá và quản lý và quản lý đối với KTQD, đồng thời các thành phần kinh tế khác
được hỡnh thành và chú trọng phát triển, đó là kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư
nhân và các thành phần khác. Từ đây KTQD mất vị trí độc tôn trong nền kinh tế
quốc dân. Song không có nghĩa là nó không cũn giữ vai trũ chủ đạo nữa, mà
ngược lại hơn bao giờ hết vai trũ chủ đạo của kinh tế quốc doanh – đó đổi thành
kinh tế nhà nước - được xem là quan trọng và cần thiết nhất. Trên giác độ kinh tế
thỡ KTNN luụn nắm giữ những lĩnh vực then chốt, những ngành trọng yếu của
nền kinh tế như: CN năng lượng (dầu mỏ, than, điện), công nghiệp luyện kim,
công nghiệp vật liệu xây dựng…
Như vậy cùng với tiến trỡnh lịch sử xõy dựng và phỏt triển QHSX mới
XHCN của nước ta, KTNN đó khẳng định được vai trũ chủ đạo mà chỉ có nó mới
thực hiện được những nhiệm vụ mà lịch sử phát triển đưa ra KTNN đó nắm được
những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trũ mở đường hướng
dẫn nền kinh tế phát triển đúng định hướng đó chọn suốt cả một thời kỳ lịch sử
phỏt triển kinh tế.
2.2 Kinh tế nhà nước và vai trũ chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
Để hiểu đúng vai trũ của một thành phần kinh tế trong một cơ chế kinh tế nhất
định thỡ ta phải hiểu được cơ chế vận hành và đặc trưng cơ bản của cơ chế kinh tế
đó. Vỡ vậy ở đây ta nghiên cứu về kinh tế nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Thỡ trước hết ta sẽ tỡm hiểu qua về cơ chế kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN.
Ta có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do
sự tác động của các quy luật vốn có của nó (đó là quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tê…), cơ chế đó giải quyết ba vấn
đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gỡ, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường
bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường.
Vậy nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN mà nước ta đang vận dụng là gỡ? Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường, tức là bất kể thành phần kinh tế nào (hay đơn vị kinh tế nào) của nền
kinh tế cũng phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, nhưng đồng thời phải
tuân thủ các nguyên tắc của chế độ XHCN dưới sự quản lý của nhà nước XHCN.
Từ khái niệm này ta có thể hiểu nôm na rằng, xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN tức là xây đựng một nền kinh tế thị trường hướng tới chế độ
XHCN, hướng tới thực hiện mục tiêu của XHCN đó là mục tiêu làm cho dân giàu,
nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ văn minh.
Đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường là cơ chế tự phát, các nhân tố kinh tế
của cơ chế đó tự tác động qua lại theo quy luật kinh tế khách quan mà dẫn đến sự
biến đổi, phát triển của nền kinh tế. Đặc điểm đó vừa là ưu điểm, vừa là hạn chế
của cơ chế này. Nó có thể mang lại một nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh,
nhưng đồng thời mang lại những khuyết tật về xó hội đó là phân biệt giàu nghèo,
bất công, tệ nạn xó hội gia tăng…
Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng
XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tức là muốn dựa trên ưu điểm của cơ chế thị
trường để khắc phục những khó khăn của nền kinh tế kém phát triển của nước ta,
đồng thời đảm bảo tiến được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng,
dõn chủ ,văn minh.
Ở các phần trên ta đó rỳt ra được rằng để xây dựng một nền kinh tế theo chế
độ XHCN thỡ nhất định kinh tế nhà nước phải luôn nắm vai trũ chủ đạo, bởi nó là
lực lượng kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất mới XHCN, nó là công cụ để nhà
nước dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế đi đúng hướng đó chọn, nú đóng vai trũ quan
trọng trong việc mở đường và hướng đẫn cho nền kinh tế phỏt triển. Cũn trong cơ
chế kinh tế thị trường thỡ sao?
Nếu nền kinh tế thị trường được để phát triển một cách tự do, không sự quản
lý của nhà nước thỡ sẽ bộc lộ rừ ngay những hạn chế, yếu kộm, những khuyết tật
vốn cú của nú. Bởi vậy với định hướng xó hội chủ nghĩa cú sự quản lý của nhà
nước thỡ nền kinh tế thị trường của chúng ta đạt được thành quả cả về mặt xó hội
và kinh tế. Muốn như vậy, mối quan hệ mới XHCN càng phải được củng cố và
phát triển hơn nữa – mà đại diện của nó là thành phần kinh tế nhà nước phải được
tổ chức làm sao ngày càng hoàn thiện và nắm được vai trũ chủ đạo của nó trong
nền kinh tế thị trường. Đó là đũi hỏi khỏch quan do những đặc điểm của cơ chế
kinh tế mới.
Thứ nhất, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, theo xu hướng hội nhập
với khu vực và quốc tế, nhưng để có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới đũi hỏi
cỏc doanh nghiệp phải cú cơ sở vật chất, kỹ thuật có quy mô, công nghệ hiện đại
ngang tầm với các nước khác trên thế giới. Bởi có như vậy Việt Nam mới có thể
phát huy được những lợi thế so sánh so với các nước khác và đứng vững để cạnh
tranh được vớ