Du lịch –ngành công nghiệp không khói hiện nay đang là một đề tài nóng
bỏng thu hút rất nhiều mối quan tâm của nhiều người.Rất nhiều quốc gia trên thế
giới đã xác định Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia mình. Bên cạnh đó,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế -xã hội du lịch đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu của con người trên toàn thế giới nói chung và con người Việt Nam
nói riêng. Chính vì lẽ đó mà ngày càng có nhiều loại hình du lịch xuất hiện nhằm
thỏa mãn nhu cầu của con người. Và một loại hình du lịch hiện nay đang phát triển
mạnh mẽ đó là loại hình du lịch nội địa
60 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2207 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa tại công ty Lữ hành Hanoitourist, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn để tài
Du lịch – ngành công nghiệp không khói hiện nay đang là một đề tài nóng
bỏng thu hút rất nhiều mối quan tâm của nhiều người. Rất nhiều quốc gia trên thế
giới đã xác định Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia mình. Bên cạnh đó,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội du lịch đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu của con người trên toàn thế giới nói chung và con người Việt Nam
nói riêng. Chính vì lẽ đó mà ngày càng có nhiều loại hình du lịch xuất hiện nhằm
thỏa mãn nhu cầu của con người. Và một loại hình du lịch hiện nay đang phát triển
mạnh mẽ đó là loại hình du lịch nội địa.
Nắm bắt được những nhu cầu này của khách hàng, rất nhiều các doanh
nghiệp du lịch đã tung ra các sản phẩm để thu hút khách du lịch. Một trong số
những doanh nghiệp có uy tín và thương hiệu về tổ chức loại hình du lịch Nội địa là
Công ty Lữ hành Hanoitourist.
Tuy nhiên, những năm qua liên tục xảy ra những bất ổn về kinh tế, dịch
bệnh...Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường hiện nay có không ít các đối thủ
cạnh tranh tổ chức thành công loại hình du lịch Nội địa này. Nên việc kinh doanh
của Công ty Lữ hành Hanoitourist gặp không ít những khó khăn. Qua thời gian thực
tập tại Công ty lữ hành Hanoitourist với mong muốn phát triển hoạt động kinh
doanh lữ hành nội địa tại Công ty và thỏa mãn tối đa nhu cầu du lịch cho khách, em
đã quyết định chọn đề tài “ Một số thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh
doanh lữ hành nội địa tại công ty Lữ hành Hanoitourist “.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt dộng khai thác nguồn khách du lịch nội địa và các
sản phẩm tour du lịch nội địa ở công ty Lữ hành Hanoitourist.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ là hoạt động kinh doanh lữ hành, chủ yếu là kinh
doanh lữ hành nội địa ở công ty Lữ hành Hanoitourist.
3. Mục đích và phương pháp nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu là dựa trên các cơ sở lý luận và thời gian thực tập tại công ty
để đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh Lữ hành Nội địa. Từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh lữ hành Nội địa ở công ty nhằm giúp cho
công ty kinh doanh có hiệu quả hơn, ngày các sản phẩm tour ngày một phong phú
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2
và hấp dẫn hơn. Và để đạt được mục đích nghiên cứu trong để tài em có sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu như:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp
+ Phương pháp thu thập và xử lỹ tài liệu
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp so sánh số liệu
4. Kết cấu của đề tài
- Chương 1; Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động du lịch
- Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh lữ hành Nội địa ở Công ty Lữ
hành Hanoitourist
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh lữ hành
Nội địa ở Công ty Lữ hành Hanoitourist.
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
1.1. Một số khái niệm cơ bản về du lịch
1.1.1. Khái niệm và phân loại công ty lữ hành lữ hành
1.1.1.1. Khái niệm công ty lữ hành
Đã tồn tại khá nhiều khái niệm khác nhau về doanh nghiệp lữ hành xuất phát
từ nhiều góc độ khác nhau trong việc nghiên cứu các doanh nghiệp lữ hành. Mặt
khác, bản thân hoạt động du lịch nói chung và lữ hành du lịch nói riêng phong phú
và đa dạng, có nhiều biến đổi theo thời gian. Ở mỗi giai đoạn phát triển, hoạt động
lữ hành luôn có những hình thức và nội dung mới.
Ở thời kỳ đầu tiên, các doanh nghiệp lữ hành chủ yếu tập trung vào các hoạt động
trung gian, làm đại lý bán sản phẩm của các nhà cung cấp như khách sạn, hàng
không...Khi đó, các doanh nghiệp lữ hành (thực chất là các đại lý du lịch) được định
nghĩa như một pháp nhân kinh doanh chủ yếu dưới hình thức là đại diện, đại lý cho
các nhà sản xuất ( khách sạn, hãng ô tô, tàu biển...) bán sản phẩm tới tận tay người
tiêu dùng với mục đích thu tiền hoa hồng (Commission). Trong quá trình phát triển
đến nay, hình thức các đại lý du lịch vẫn liên tục được mở rộng.
Một cách khái niệm phổ biến hơn là căn cứ vào hoạt động tổ chức các chương trình
du lịch của các doanh nghiệp lữ hành. Khi đã phát triển ở một mức độ cao hơn so
với việc làm trung gian thuần túy, các doanh nghiệp lữ hành đã tự tạo ra các sản
phẩm của mình bằng cách tập hợp các sản phẩm riêng rẽ như dịch vụ khách sạn, vé
máy bay, ô tô, tàu thủy và các chuyến tham quan thành một sản phẩm hoàn chỉnh và
bán cho khách du lịch với một mức giá gộp. Ở đây, doanh nghiệp lữ hành không chỉ
dừng lại ở người bán mà trở thành người mua sản phẩm của các nhà cung cấp du
lịch. Tại Bắc Mỹ, doanh nghiệp lữ hành được coi là những công ty xây dựng các
chương trình du lịch bằng cách tập hợp các thành phần như khách sạn, hàng không,
tham quan... và bán chúng với một mức giá gộp cho khách du lịch thông qua hệ
thống các đại lý bán lẻ. Như vậy, doanh nghiệp lữ hành là các pháp nhân tổ chức và
bán các chương trình du lịch. Ở Việt Nam, doanh nghiệp lữ hành được định nghĩa:”
Doanh nghiệp lữ hành là đơn vị có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, được
thành lập nhằm mục đích sinh lợi bằng việc giao dịch, ký kết các hợp đồng du lịch
và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch”.
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
4
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều công ty lữ hành có phạm vi hoạt động rộng lớn,
mang tính toàn cầu và trong hầu hết các lĩnh vực của hoạt động du lịch. Các công ty
lữ hành đồng thời sở hữu các tập đoàn khách sạn, các hãng hàng không, tầu biển,
ngân hàng, phục vụ chủ yếu khách du lịch của công ty lữ hành. Kiểu tổ chức các
công ty lữ hành nói trên rất phổ biến ở châu Âu, châu Á và đã trở thành những tập
đoàn kinh doanh du lịch có khả năng chi phối mạnh mẽ thị trường du lịch quốc tế.
Ờ giai đoạn này, thì các công ty lữ hành không chỉ là người bán (phân phối), người
mua sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch mà trở thành người sản xuất trực tiếp ra
các sản phẩm du lịch. Từ đó có thể nêu một khái niệm doanh nghiệp lữ hành như
sau:
Doanh nghiệp lữ hành là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích lợi nhuận
thông qua việc tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chương trình du lịch cho
khách du lịch. Ngoài ra, doanh nghiệp lữ hành còn có thể tiến hành các hoạt động
trung gian bán sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch hoặc thực hiện các hoạt
động kinh doanh tổng hợp khác đảm bảo phục vụ các nhu cầu du lịch của khách từ
khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.
1.1.1.2. Phân loại công ty lữ hành lữ hành
Nhìn chung, các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành khác nhau chủ yếu trên
các phương diện sau đây:
- Quy mô và địa bàn hoạt động
- Đối tượng khách
- Mức độ tiếp xúc với khách du lịch
- Mức độ tiếp xúc với các nhà cung cấp sản phẩm du lịch
Như vậy, tùy vào quy mô, phạm vi hoạt động và tính chất của sản phẩm, hình thức
tổ chức, tư cách pháp nhân mà doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có các tên gọi khác
nhau: hãng lữ hành, công ty lữ hành, đại lý lữ hành, công ty lữ hành quốc tế, công
ty lữ hành nội địa. Riêng ở Việt Nam phần lớn các doanh nghiệp có kinh doanh lữ
hành thường có tên gọi phổ biến là các trung tâm lữ hành quốc tế, nội địa nằm trong
các công ty du lịch.
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
5
1.1.2. Khái niệm về khách du lịch
Khái niệm về khách du lịch xuất hiện đầu tiên ở Pháp vào cuối thế kỷ thứ XIII. Thời
bấy giờ các cuộc hành trình của người Đức, người Đan Mạch, người Bồ Đào Nha,
người Hà Lan và người Anh trên đất Pháp được chia làm hai loại:
+ Lepetit tour ( cuộc hành trình nhỏ): Đi thành phố Pari đến miền Đông Nam nước
Pháp.
+ Le grand tour ( cuộc hành trình lớn): cuộc hành trình của những người đi dọc theo
bờ Địa Trung Hải xuống Tây Nam nước Pháp và vùng bourgon.
Khách du lịch được định nghĩa là người thực hiện một cuộc hành trình lớn “Faire le
grand tour”.
Vào đầu thế kỷ XX nhà kinh tế học người Áo Iozef Stander định nghĩa: “ Khách du
lịch là hành khách xa hoa ở lại theo ý thích, ngoài nơi cư trú thường xuyên để thỏa
mãn những nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi các mục tiêu kinh tế”
Nhà kinh tế học người Anh Ogilvie Vi khẳng định: để trở thành khách du lịch cần
có hai điều kiện
Thứ nhất: phải xa nhà thời gian dưới một năm.
Thứ hai: ở đó phải tiêu những khoản tiền đã tiết kiệm ở nơi khác.
Tuy nhiên, những khái niệm nêu ra ở trên đều mang tính phiến diện, chưa đầy đủ,
chủ yếu mang tính chất phản ánh sự phát triển của du lịch đương thời và xem xét
không đầy đủ, hạn chế nội dung thực của khái niệm – khách du lịch.
Để nghiên cứu một cách đầy đủ và có cơ sở đáng tin cậy, cần tìm hiểu và phân tích
một số định nghĩa về “khách du lịch” được đưa ra từ các hội nghị quốc tế về du lịch
hay của các tổ chức quốc tế quan tâm đến các vấn đề du lịch. Cụ thể:
- Định nghĩa của tổ chức du lịch thế giới ( UNWTO) về khách du lịch.
+ Khách du lịch quốc tế ( International tourist): là một người lưu trú ít nhất
một đêm nhưng không quá 1 năm tại một quốc gia khác quốc gia thưòng trú. Du
khách có thể đến vì nhiều lý do khác nhau nhưng không có lĩnh lương ở nơi đến (
chữa bệnh, thăm quan, giải trí công vụ…)
+ Khách du lịch trong nước ( Internal tourist): Là người đang sống trong một
quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác trong quốc gia đó trong thời
gian ít nhất 24 giờ và không qua 1 năm với mục đích du lịch như: Giải trí, kinh
doanh, công tác, hội họp, thăm gia đình…. ( trừ làm việc để lĩnh lương)
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
6
- Ngày 4 – 3 – 1993 theo đề nghị của Tổ chức Du lịch Thế giới, Hội đồng thống
kê Liên Hiệp Quốc ( United Nations Statisticall Commission) đã công nhận
những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch:
+ Khách du lịch quốc tế ( Internation tourist) gồm 2 loại:
Inbound tourist: Du lịch nhập cảnh hay du lịch quốc tế chủ động. Loại này gồm
những người từ nước ngoài đến du lịch tại một quốc gia.
Outbound tourist: du lịch quốc tế thụ động hay du lịch xuất cảnh. Loại này là
những khách du lịch từ nước mình đi đến du lịch tại một quốc gia khác. Hiện nay
trên thế giới các nước như Pháp, Mỹ… giữ đầu bảng về thể loại du lịch quốc tế thụ
động.. Như vậy khách du lịch chủ động của quốc gia này lại là khách du lịch thụ
động của quốc gia khác ( nhận và gửi khách) .Một số điểm có thể coi là trở ngại đối
với khách du lịch quốc tế là: Ngôn ngữ , tiền tệ, thủ tục giấy tờ.
+ Khách du lịch trong nước: (Internal tourist): Gồm những ngưòi bản địa và
những người nước ngoài đang cư trú tại quốc gia đó du lịch trong nứơc
+ Khách du lịch Nội địa ( Domestic tourist): Đây là thị trường cho các cơ sở
lưu trú và các nguồn thu hút du khách trong một quốc gia.
Domestic tourist =Internal + Inbound
+ Khách du lịch quốc gia( National tourist):
National tourist = Internal + Outbound.
- Định nghĩa về khách du lịch của Việt Nam:
Theo luật du lịch Việt Nam (2005): Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp
đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi
đến.
+ Khách du lịch quốc tế:
Theo quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục du lịch Việt Nam ( 29/4/1995). Khách
du lịch quốc tế là người nước ngoài đến Việt Nam không quá 12 tháng với mục
đích thăm quan, nghỉ dưỡng, hành hương, thăm người thân, bạn bè, tìm hiểu cơ hội
kinh doanh.
Theo Luật du lịch Việt Nam (2005).
Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
vào Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nứơc ngoài thường trú tại Việt
Nam ra nước ngoài du lịch.
+ Khách du lịch nội địa:
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
7
Theo quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục du lịch Việt Nam: Khách du lịch nội
địa là là công dân Việt Nam ra khỏi nơi ở không quá 12 tháng đi du lịch, thăm
người thân, kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam
Theo luật du lịch Việt Nam: Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người
nứơc ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
1.1.3. Khái niệm về du lịch và phân loại các loại hình du lịch.
1.1.3.1. Khái niệm về du lịch
Du lịch là hiện tượng kinh tế, xã hội phức tạp và trong quá trình phát triển,
nội dung của nó không ngừng được mở rộng và ngày một phong phú. Để đưa ra
một định nghĩa cho hiện tượng đó sao cho nó vừa mang tính chất bao quát, vừa
mang tính chất lý luận và thực tiễn, đó là một vấn đề hết sức khó khăn. Có thể nêu
ra một số khó khăn sau:
Khó khăn thứ nhất: do tồn tại các cách tiếp cận khác nhau và dưới các góc độ
khác nhau mà các tác giả có các định nghĩa khác nhau về du lịch. Cụ thể:
Tiếp cận trên góc độ của người đi du lịch: Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm
thời ở ngoài nơi lưu trú thường xuyên của cá thể, nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác
nhau, với mục đích hòa bình và hữu nghị. Với họ, du lịch như là một cơ hội để tìm
kiếm những kinh nghiệm sống và sự thỏa mãn một số các nhu cầu về vật chất và
tinh thần của họ
Tiếp cận trên góc độ người kinh doanh du lịch: Du lịch là quá trình tổ chức các sự
kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người đi du
lịch. Các doanh nghiệp du lịch coi du lịch như là một cơ hội để bán các sản phẩm
mà họ sản xuất ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách (người đi du lịch), đồng
thời thông qua đó đạt được mục đích số một của mình là tối đa hóa lợi nhuận.
Tiếp cận trên góc độ của chính quyền địa phương: Trên góc độ này, du lịch được
hiểu là việc tổ chức các điều kiện về hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ
thuật để phục vụ du khách. Du lịch là tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng,
được tổ chức nhằm giúp đỡ việc hành trình và lưu trú tạm thời của cá thể. Du lịch
là một cơ hội để bán các sản phẩm địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng các nguồn
thu nhập từ các khoản thuế trực tiếp và gián tiếp, đẩy mạnh cán cân thanh toán và
nâng cao mức sống vật chất và tinh tinh thần cho dân địa phương.
Tiếp cận trên góc độ cộng đồng dân cư sở tại: thì du lịch là một hiện tượng kinh tế
- xã hội.
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
8
Khó khăn thứ hai: là do sự khác nhau về ngôn ngữ và cách hiểu khác nhau về du
lịch ở các nước khác nhau. Bên cạnh vấn đề về ngôn ngữ thì hiện nay tồn tại các
cách nhìn nhận khác nhau về du lịch ở các nước khác nhau còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như:
+ Phụ thuộc vào lịch sử và trình độ phát triển của ngành du lịch
+ Phụ thuộc vào tầm quan trọng của du lịch đối với nền kinh tế - xã hội của đất
nước (là ngành kinh tế mũi nhọn, là ngành kinh tế quan trọng, là ngành đem lại lợi
nhuận cao hay đem lại lợi nhuận không đáng kể)
+ Phụ thuộc vào chinh sách phát triển của mỗi quốc gia
Khó khăn thứ ba: do tính đặc thù của hoạt động du lịch. Du lịch là một ngành
dịch vụ nên nó tồn tại những đặc thù riêng khác biệt so với các ngành khác như:
Thứ nhất, các nhu cầu du lịch là tổng hợp của các nhu cầu đi lại, ăn nghỉ, vui chơi,
giải trí...và các nhu cầu này phải xuất phát đồng bộ trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, một sản phẩm du lịch tổng hợp không thế do một đơn vị kinh doanh tạo ra
mà do tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng tạo ra.
Thứ ba, du lịch là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp. Do vậy, ngành du lịch chỉ
có thể phát triển được khi có sự kết hợp chặt chẽ với các ngành khác như tài chính
– ngân hàng, xây dựng, giao thông...
Thứ tư, do du lịch là hoạt động kinh tế mới mẻ, còn đang trong quá trình phát triển.
Thứ năm, đó là tính hai mặt của bản thân từ “du lịch”.
Và do sự tồn tại của các khó khăn khách quan và chủ quan trong việc tìm ra một
định nghĩa thống nhất về du lịch nên đến nay có rất nhiều các định nghĩa khác nhau
về du lịch của các tác giả khác nhau.
Năm 1811, lần đầu tiên có định nghĩa về du lịch tại Anh như sau: “Du lịch là sự
phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục
đích giải trí. Ở đây, sự giải trí là động cơ chính”.
Năm 1930, ông Glusman, người Thụy Sỹ định nghĩa: Du lịch là sự chinh phục
không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không có chỗ cư trú
“thường xuyên”.
Giáo sư, tiến sỹ Hunziker và giáo sư, tiến sỹ Krapf – hai người được coi là những
người đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau: Du
lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành
trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không
thành cư trú thường xuyên và không dính dáng đến hoạt động kiếm lời.
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
9
Định nghĩa về du lịch của Trường Tổng hợp kinh tế thành phố Varna, Bulgarie:
Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội được lặp đi, lặp lại đều đặn – chính là
sản xuất và trao đổi dịch vụ và hàng hóa của các đơn vị kinh tế riêng biệt, độc lập –
đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên môn nhằm đảm
bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi với mục đích thỏa mãn các nhu cầu cá thể
về vật chất và tinh thần của những người lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của họ
để nghỉ ngơi, chữa bệnh, giải trí... mà không có mục đích lao động kiếm lời.
Định nghĩa này đã xem xét rất kỹ hiện tượng du lịch như là một phạm trù kinh tế
với đầy đủ tính đặc trưng và vai trò của một bộ máy kinh tế, kỹ thuật điều hành.
Song, nó cũng có nhược điểm là lặp đi lặp lại một số ý.
Trong pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại điều 10, thuật ngữ “Du lịch” được hiểu
như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định”.
Bên cạnh những định nghĩa khác nhau về du lịch được đưa ra ở nhiều nước khác
nhau thì để có quan niệm đầy đủ cả về góc độ kinh tế và kinh doanh của du lịch,
khoa Du lịch và Khách sạn (Trường ĐHKTQD) Hà Nội cũng đã đưa ra định nghĩa
về du lịch trên cơ sở tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động trên thế
giới và ở Việt Nam trong những thập niên gần đây:
“Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du
lịch, sản xuất, trao đổi hàn hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng
các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và nhu cầu
khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã
hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp”
1.1.3.2. Phân loại các loại hình du lịch
Việc nghiên cứu, phân loại và xu hướng phát triển của các loại hình du lịch
đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh du lịch. Nó giúp cho doanh
nghiệp kinh doanh du lịch có thẻ xác định được mục tiêu, chiến lược và phương
pháp kinh doanh hiệu quả nhất.
Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc điểm
giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự, hoặc
được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách phân
phối, một cách tổ chức như nhau, hoặc được xếp chung theo một mức giá bán nào
Đại học Kinh tế Quốc dân Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
10
đó. Và khi phân loại các loại hình du lịch thì các tiêu thức phân loại thường được sử
dụng như sau:
a. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch. Theo tiêu thức này, Du lịch
được chia thành 2 loại là du lịch Quốc tế và du lịch Nội địa.
- Du lịch quốc tế là loại hình du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của du
khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Ở hình thức du lịch này khách
phải đi qua biên giới và tiêu thụ ngoại tệ ở nơi đến du lịch .Du lịch quốc tế được
chia thành 2 loại :
+ Du lich quốc tế chủ động ( Inbound): là hình thứ