Trong quá trình hội nhập nề kinh tế thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu đang rất
được Nhà nước cũng như nhiều doanh nghiệp quan tâm. Xuất khẩu không những đem lại
nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, mà còn giảI quyết hàng triệu công ăn việc làm cho
người lao động, thức đẩy các ngành khác phát triển.
Ngành dệt may ngày nay đang là một trong những ngành xuất khẩu chính của toàn
bộ các ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp dệt may được đánh giá có vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển của đất nước.
Công ty dệt Minh Khai là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu đứng đầu của
sở công nghiệp Hà Nội. Hàng năm doanh thu xuất khẩu của công ty đạt trên 80% tổng
doanh thu toàn doanh nghiệp. Trong thời gian qua công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ sản
xuất và các chỉ tiêu do Nhà nước giao và ngày càng khẳng định được vị thế của mình.
Công ty đã xuất khẩu sang thị trường nhiều nước trên thế giới như thị trường Nhật
Bản, EU, ĐàI Loan,… đồng thời tạo được uy tín của công ty trên thị trường thế giới.
Với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu khá đa dạng và phong phú, sản phẩm của công ty
đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng các nước bạn. Sản phẩm của công ty được biết
đến bởi chất lượng cao, kiểu dáng mẫu mã phong phú.
Tuy nhiên trong môI trường cạnh tranh khốc liệt như hiẹn nay đòi hỏi doanh
nghiệp phảI luôn đỏi mới và hoàn thiện mình. Lựa chọn một cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
có hiệu quả là một trong những vấn đề mà công ty cần xem xét nhằm tìm được một
hướng đI đúng đắn nhất tạo khả năng cạnh tranh tốt nhất cho doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực tế trên, em đã chon đề tàI “Phân tích cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu của công ty dệt Minh Khai”cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề gồm 3 phần:
Phần 1. Giới thiệu chung về công ty dệt Minh Khai
Phần 2. Thực trạng c ơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai
Phần 3. Điều chỉnh c ơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai
84 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2351 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phân tích cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
của công ty dệt Minh Khai
Lời mở đầu
Trong quá trình hội nhập nề kinh tế thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu đang rất
được Nhà nước cũng như nhiều doanh nghiệp quan tâm. Xuất khẩu không những đem lại
nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, mà còn giảI quyết hàng triệu công ăn việc làm cho
người lao động, thức đẩy các ngành khác phát triển.
Ngành dệt may ngày nay đang là một trong những ngành xuất khẩu chính của toàn
bộ các ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp dệt may được đánh giá có vai trò rất quan
trọng trong sự phát triển của đất nước.
Công ty dệt Minh Khai là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu đứng đầu của
sở công nghiệp Hà Nội. Hàng năm doanh thu xuất khẩu của công ty đạt trên 80% tổng
doanh thu toàn doanh nghiệp. Trong thời gian qua công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ sản
xuất và các chỉ tiêu do Nhà nước giao và ngày càng khẳng định được vị thế của mình.
Công ty đã xuất khẩu sang thị trường nhiều nước trên thế giới như thị trường Nhật
Bản, EU, ĐàI Loan,… đồng thời tạo được uy tín của công ty trên thị trường thế giới.
Với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu khá đa dạng và phong phú, sản phẩm của công ty
đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng các nước bạn. Sản phẩm của công ty được biết
đến bởi chất lượng cao, kiểu dáng mẫu mã phong phú.
Tuy nhiên trong môI trường cạnh tranh khốc liệt như hiẹn nay đòi hỏi doanh
nghiệp phảI luôn đỏi mới và hoàn thiện mình. Lựa chọn một cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
có hiệu quả là một trong những vấn đề mà công ty cần xem xét nhằm tìm được một
hướng đI đúng đắn nhất tạo khả năng cạnh tranh tốt nhất cho doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực tế trên, em đã chon đề tàI “Phân tích cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu của công ty dệt Minh Khai”cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề gồm 3 phần:
Phần 1. Giới thiệu chung về công ty dệt Minh Khai
Phần 2. Thực trạng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai
Phần 3. Điều chỉnh cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai
nội dung
Phần 1. Giới thiệu chung về công ty dệt minh khai
1.1. Giới thiệu khái quát về công ty dệt Minh Khai:
1.1.1. Thông tin chung về công ty
Tên công ty: Công ty dệt Minh Khai
Tên giao dịch quốc tế: Minh Khai Textile Company
Trụ sở chính: 423 Đường Minh Khai-Hà Nội
Hình thức pháp lý: Doanh nghiệp nhà nước
Ngành nghề kinh doanh chính: Sản xuất khăn mặt và khăn tắm, màn tuyn
Điện thoại: 84-4-8624002
Fax: 84-4-8624255
1.1.2. Lịch sử hình thành của công ty:
Công ty dệt Minh Khai là một trong những đơn vị chủ lực của ngành công nghiệp
Hà Nội , thuộc sự quản lý của sở công nghiệp Hà Nội. Trước khi thành lập công ty có tên
là Nhà máy dệt khăn mặt khăn tay.
Công ty được khởi công xây dựng từ cuối những năm 60 - đầu những năm 70 của
thế kỷ 20 - đây là thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở Miền Bắc Việt Nam
đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Vì vậy, việc xây dựng công ty có những thời gian bị gián
đoạn và phải dời đi sơ tán ở những địa điểm khác nhau trên địa bàn Hà Nội. Đến đầu
những năm 70, công ty chuyển về đóng trụ sở tại địa bàn phía Đông Nam thành phố Hà
Nội.
Năm 1974, Công ty cơ bản được xây dựng xong và chính thức được thành lập theo
quyết định của UBND thành phố với tên gọi là Nhà máy dệt khăn mặt khăn tay. Cũng
năm đó nhà máy đi vào sản xuất thử và đến năm 1975 công ty chính thức nhận kế hoạch
của nhà nước giao. Đến năm 1983, công ty đổi tên thành: Nhà máy dệt Minh Khai.
Năm 1992, công ty được thành lập lại theo quyết định số 338/TTg của thủ tướng
chính phủ với số vốn là 8,680 tỷ đồng, trong đó:
- Vốn ngân sách cấp: 1,300 tỷ đồng
- Vốn huy động (vay): 7,380 tỷ đồng
Năm 1994, để thuận tiện trong giao dịch sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị
trường, nhà máy đổi tên thành Công ty dệt Minh Khai.
Đến 2004, công ty dệt Minh Khai đã đạt đến quy mô:
Diện tích mặt bằng: gần 4 ha
Công ty gồm 4 phân xưởng sản xuất, 5 phòng chức năng, với tổng số cán bộ
công nhân viên trong danh sách 1061 người.
Số ngày làm việc trong năm: 350 ngày
Số ca làm việc trong ngày: 3 ca (tuỳ theo phân xưởng)
Số giờ làm việc trong ca: 8h
Thu nhập bình quân đầu người: 900.000 đ/người/tháng
Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong nghành
công nghiệp địa phương của Hà Nội, đóng góp một phần đáng kể vào GDP của địa
phương, đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động của thành phố và
của các tỉnh lân cận. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty là sản xuất các loại khăn bông, khăn
tắm, khăn ăn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Cho đến nay cơ cấu sản phẩm của
công ty đã được mở rộng và đa dạng hơn, gồm: các loại khăn bông thường, khăn bông in
hoa, khăn bông dệt Dobby, khăn bông dệt Jacquard, áo choàng tắm, khăn nhà bếp, màn
tuyn... Các sản phẩm này chủ yếu là phục vụ xuất khẩu , ngoài ra được tiêu thụ tại các đại
lý, siêu thị, khách sạn trong nước.
1.1.3. Quá trình phát triển:
* Giai đoạn 1974-1980:
Trong thời gian đầu mới thành lập và đi vào hoạt động, công ty gặp rất nhiều khó
khăn do nhà xưởng xây dựng chưa hoàn chỉnh, thiết bị do Trung Quốc viện trợ về lắp đặt
không đồng bộ, khâu đầu của dây chuyền sản xuất không hoạt động được phải làm theo
phương pháp thủ công. Số máy ban đầu của công ty chỉ có 260 máy dệt thoi khổ hẹp của
Trung Quốc, tài sản cố định của công ty khi đó mới chỉ có gần 3 triệu đồng. Là đơn vị
đầu tiên của miền Bắc sản xuất mặt hàng khăn bông nên nhiều thông số kỹ thuật không
có sẵn, mà phải vừa làm vừa mò mẫm tìm tòi. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành
nghề thiếu nhiều. Do vậy, những năm đầu sản xuất công ty mới chỉ đưa vào hoạt động
được hơn 100 máy dệt, số cán bộ công nhân viên là 415 người.
Năm 1975, năm đầu tiên đi vào sản xuất, công ty mới chỉ đạt:
- Giá trị tổng sản lượng gần 2,5 triệu đồng
- Sản phẩm chủ yếu gần 2 triệu khăn các loại.
Những năm tiếp theo, hoạt động của công ty dần đi vào ổn định, việc xây dựng và
hoàn thiện dây chuyền sản xuất được tiếp tục, năng lực sản xuất được tăng thêm, lao động
được bổ sung, năng suất lao động và doanh thu ngày càng tăng.
* Giai đoạn 1981-1989:
Đây là thời kỳ phát triển cao của công ty. Những năm này, công ty được thành phố
đầu tư thêm cho một dây chuyền công nghệ dệt kim đan dọc của CHDC Đức (cũ) để dệt
các loại vải tuyn, rèm, valide. Như vậy, về mặt sản xuất, công ty đã được giao cùng một
lúc quản lý và triển khai thực hiện 2 quy trình công nghệ dệt khác nhau là dệt kim đan
dọc và dệt thoi. Công ty cũng đã tập trung đầu tư chiều sâu, đồng bộ hoá dây chuyền sản
xuất, bằng mọi phương pháp kinh tế và kỹ thuật đưa dần toàn bộ máy móc thiết bị ở khâu
đầu dây chuyền sản xuất như: nồi hơi, nồi nấu áp lực, máy nhuộm, máy sấy sợi đi vào
hoạt động, phục vụ cho sản xuất. Nhờ đó công ty đã chấm dứt được tình trạng khâu đầu
của sản xuất phải làm thủ công và đi thuê ngoài gia công.
Cũng trong thời kỳ này, để tháo gỡ những khó khăn về vấn đề nguyên vật liệu và thị
trường tiêu thụ, chủ động sản xuất kinh doanh, công ty đã chỉnh hướng sản xuất kinh
doanh từ chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa sang lĩnh vực sản xuất phục vụ
cho xuất khẩu là chủ yếu (xuất khẩu sang cả 2 thị trường XHCN và TBCN). Năm 1981,
thông qua công ty xuất nhập khẩu hàng dệt TEXTIMEX, công ty đã ký hợp đồng xuất
khẩu dài hạn sang CHDC Đức và Liên Xô (cũ). Năm 1983, công ty bắt đầu sản xuất khăn
ăn xuất khẩu cho thị trường Nhật Bản với sự giúp đỡ của UNIMEX Hà Nội, và từ đó đến
nay, lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này ngày càng lớn, thị phần của công ty trong
thị trường Nhật Bản ngày càng tăng. Đặc biệt từ năm 1988, công ty được Nhà nước cho
phép thực hiện xuất khẩu trực tiếp, trở thành công ty đầu tiên ở miền Bắc được Nhà nước
cho phép làm thí điểm về xuất nhập khẩu trực tiếp sang thị trường nước ngoài.
Trong thời kỳ 1981-1989, mức tăng trưởng trong sản xuất kinh doanh của công ty
luôn ở mức cao (từ 9-11%/năm) , đặc biệt là chỉ tiêu xuất khẩu.
* Giai đoạn 1990 đến nay:
Những năm 90, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế quản lý mới theo tinh thần
nghị quyết Đại hội VI - VII của Đảng. Tình hình chính trị trên thế giới cũng có nhiều biến
động. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ, các quan hệ bạn hàng
của công ty với các nước này cũng không còn, công ty mất đi một thị trường quan trọng
và truyền thống.
Trong lịch sử hơn 20 năm xây dựng và phát triển của công ty, có thể nói đây là thời
kỳ mà công ty gặp nhiều khó khăn lớn nhất, phảI đối mặt với những thách thức khắc
nghiệt nhất. Vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh thiếu trầm trọng, máy móc thiết bị đầu
tư ở giai đoạn trước đã cũ và lạc hậu, không đủ đáp ứng cho yêu cầu mới. Đội ngũ cán bộ
công nhân viên của công ty quá đông và đã quen với cơ chế bao cấp nay chuyển sang cơ
chế mới không dễ thích nghi.
Trước tình hình đó, bằng những nỗ lực cố gắng, chủ động sáng tạo của bản thân
công ty, cùng với sự quan tâm của lãnh đạo cấp trên, sự hỗ trợ của các đơn vị bạn, công
ty tập trung sức tháo gỡ những khó khăn, giải quyết từ những vấn đề quan trọng nhất về
thị trường, về vốn, và về tổ chức lại sản xuất, lựa chọn bố trí lại lao động... Nhờ đó công
ty đã từng bước thích nghi với cơ chế thị trường, ổn định và phát triển theo hướng xuất
khẩu là chính, hoàn thành các nghĩa vụ với Nhà nước, bảo toàn và phát triển được vốn
cho sản xuất kinh doan, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên.
Nhìn lại quá trình hơn 20 năm xây dựng và phát triển của công ty, tuy có lúc thăng
trầm, song đó chỉ là những bước nhất định trong một tiến trình phát triển và đổi mới đi
lên. Điều này được thể hiện thông qua kết quả như sau:
- Giá trị tổng sản lượng năm 1975, công ty mới chỉ đạt được gần 2,5 triệu đồng,
năm 1990, đã đạt hơn 9,1 tỷ đồng.
- Sản phẩm chủ yếu, những năm đầu mới chỉ đạt được gần 2 triệu sản phẩm khăn
các loại cho nhu cầu nội địa. Năm 1995 đã có sản phẩm xuất khẩu (85% sản phẩm khăn)
và sản xuất thêm mặt hàng màn tuyn.
- Doanh thu đạt gần 3,5 triệu đồng năm 1975, những năm 1990 đã đạt 13,5 tỷ
đồng và đến năm 1997 đạt 54,6 tỷ đồng.
- Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 đạt 1.635.666 USD. Năm 1997 đạt 3.588.397
USD.
- Nộp ngân sách năm đầu tiên gần 68.000 triệu đồng, năm 1990 nộp 525,9 triệu
đồng và đến năm 1997 nộp 1.534,8 triệu đồng.
Công tác khoa học kĩ thuật được đặc biệt chú ý và được coi là biện pháp hàng đầu
để thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong hơn 20 năm, công ty đã chế thử được hơn 300 mẫu
sản phẩm và đã đưa vào sản xuất trong đó 100 mẫu được khách hàng chấp nhận.
Trên đây là sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty dệt Minh Khai.
Với lịch sử phát triển của mình, công ty dệt Minh Khai đã đạt được một số thành tựu lớn,
đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta, hoàn thành nghĩa vụ đối với
nhà nước, xứng đáng là một công ty lớn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân và thành phố Hà Nội .
1.2. Những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến cơ cấu sản phẩm
xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai :
1.2.1. Tính chất và nhiệm vụ sản xuất:
Công ty dệt Minh Khai là một công ty chuyên sản xuất và xuất khẩu các loại khăn
bông, áo choàng tắm, màn tuyn và vải tuyn, đồng thời đáp ứng một phần nhu cầu tiêu
dùng trong nước. Sản phẩm của công ty được sản xuất hàng loạt trên dây chuyền với số
lượng lớn, kiểu dáng phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc do phòng kỹ thuật thiết kế trên
máy vi tính.
Công ty không đặt ra kế hoạch sản xuất trong thời gian dài mà đề ra kế hoạch theo
năm, năm trước đặt kế hoạch cho năm sau trên cơ sở phân tích năng lực sản xuất hiện có
của công ty về các mặt vốn, công nghệ, lao động...Bên cạnh đó công ty cũng căn cứ vào
tình hình tiêu thụ sản phẩm của năm trước và những biến động trên thị trường.
Việc xuất khẩu chủ yếu của công ty là làm theo đơn đặt hàng và Nhật Bản là một
trong những khách hàng chính của công ty nên tính chất và nhiệm vụ sản xuất khó ổn
định. Thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt làm cho công tác lập kế
hoạch của công ty gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, do khách hàng chủ yếu của công ty là
các bạn hàng Nhật Bản cộng với sự cạnh tranh gay gắt nên vấn đề đa dạng hoá sản phẩm,
mẫu mã, chủng loại, cải tiến chất lượng và giá cả phù hợp với người tiêu dùng là nhiệm
vụ trọng tâm xuyên suốt quá trình sản xuất và kinh doanh của công ty. Với một môI
trường cạnh tranh khốc liệt việc lựa chọn một cơ cấu sản phẩm xuất khẩu là tương đối
khó và cần được thực hiện từng bước nhằm đạt mục tiêu đề ra.
1.2.2. Đặc điểm về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của công ty:
Sản phẩm của công ty là sản phẩm thiết yếu đối với người tiêu dùng, vật dụng
không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của người tiêu dùng như khăn mặt, khăn tắm,
màn tuyn... Sản phẩm của công ty mang tính chất sử dụng nhiều lần, có tác dụng giữ gìn
vệ sinh, và bảo vệ sức khoẻ. Sản phẩm tiêu dùng cho cá nhân nên đòi hỏi bền, mềm, thấm
nước, màu sắc, mẫu mã phong phú, không phai màu, nhiều kích cỡ khác nhau, độ dày
mỏng phù hợp.
Do nhu cầu thị hiếu tiêu dùng của người dân ngày càng cao, cùng sự tiến bộ của
khoa học kĩ thuật nên công ty đã không ngừng cải tiến, thiết kế ra những mẫu mới. Hơn
nữa các sản phẩm của công ty không những chỉ phong phú về kiểu dáng, mẫu mã, mà
ngày càng được nâng cao về chất lượng. Hiện nay cơ cấu sản phẩm của công ty đã phong
phú hơn rất nhiều và có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và thị trường
xuất khẩu (sản phẩm xuất khẩu chiếm xấp xỉ 90% khối lượng sản phẩm sản xuất). Sản
phẩm của công ty gồm 2 loại chủ yếu:
- Khăn bông các loại
- Vải màn tuyn
Với sản phẩm khăn bông công ty sản xuất từ nguyên liệu sợi bông 100% nên có độ
thấm nước, độ mềm mại cao, phù hợp với yêu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Đây là
nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty, chiếm tới 98% khối lượng sản phẩm của
công ty, bao gồm:
+ Khăn ăn: dùng trong các nhà hàng và gia đình. Đối với các loại khăn ăn dùng cho
nhà hàng công ty bán cho các cơ sở cung cấp khăn cho nhà hàng làm khăn ướt. Loại khăn
này chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, chỉ có một phần rất ít tiêu thụ trong
nước.
+ Khăn rửa mặt: Đối với loại khăn này, công ty cũng có các loại khăn phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng trong nước, song chủ yếu là tiêu thụ qua các nhà bán buôn và các siêu
thị.
+ Khăn tắm: Loại khăn này công ty chủ yếu sản xuất cho nhu cầu xuất khẩu ra thị
trường nước ngoài. Song hiện nay, xu hướng sử dụng khăn tắm trong nước cũng tăng
nhiều nên công ty đã có hướng nghiên cứu mặt hàng khăn tắm phù hợp với nhu cầu tiêu
dùng và còn phục vụ cho nhu cầu quảng cáo, khuyến mãi các sản phẩm khác như: dầu gội
đầu, sứ vệ sinh, dụng cụ thể thao...
+ Bộ khăn dùng cho khách sạn bao gồm khăn tắm, khăn mặt, khăn tay, thảm chùi
chân, và áo choàng tắm. Công ty có hợp đồng cung cấp loại sản phẩm này cho gần 100
khách sạn tại Nhật Bản thông qua các công ty thương mại Nhật Bản là ASAHI, HOUEI,
DAIEI, VINASEIKO, DAIWABO, FUKIEN, FUJIWARA... Ngoài ra, các khách sạn
trong nước nhất là các khách sạn liên doanh với nước ngoài tại các thành phố Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh cũng đặt hàng tại công ty.
- Các loại vải sợi bông sử dụng để may lót và may mũ giày phục vụ cho các cơ sở
may xuất khẩu như: giày Ngọc Hà, may X40.
- Với sản phẩm vải màn tuyn, công ty sản xuất từ nguyên liệu 100% sợi PETEX nên
đảm bảo cho màn tuyn có độ bền cao và chống được oxy hoá gây vàng màn. Loại sản
phẩm này mới được đưa vào sản xuất trong công ty hơn 10 năm, nên khối lượng sản xuất
ra chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn. Ngoài ra công ty cũng ký các hợp đồng xuất khẩu màn
tuyn sang các nước Châu Phi theo chương trình phòng chống sốt rét của Liên Hợp Quốc.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu gồm các loại sản phẩm chính sau:
Khăn Jacquard
Khăn ăn các loại
Khăn dobby
áo choàng tắm
màn tuyn
1.2.3. Đặc điểm thị trường xuất khẩu của công ty:
Thị trường tiêu thụ chính của công ty dệt Minh Khai là thị trường nước ngoài với
lượng sản phẩm chiếm khoảng 90% số lượng sản phẩm sản xuất. Trong đó thị trường
xuất khẩu truyền thống của công ty là các khách hàng Nhật Bản (chiếm 85% số lượng sản
phẩm xuất khẩu ), còn 5% là xuất khẩu sang các thị trường Châu Âu và Châu á và các thị
trường khác .
Trước đây sản phẩm của công ty chỉ xuất khẩu sang các nước Đông Âu và Liên Xô
cũ là chính.. Song từ khi hệ thống Xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở những nước này thì công ty
đã mất đi các bạn hàng, và đặc biệt từ khi thực hiện nền kinh tế mở cửa thì sản phẩm xuất
khẩu của công ty hướng mạnh về các nước có nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Đây là
những thị trường có tiềm năng xuất khẩu lớn đối với công ty. Nếu biết cách khai thác, sẽ
đem lại lợi nhuận rất lớn cho công ty, giúp công ty có thể cải thiện đời sống cho đội ngũ
cán bộ công nhân viên, hoàn thành nghĩa vụ ngân sách với Nhà nước, đóng góp một phần
không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước trở thành một nước công nghiệp.
2.3.1. Thị trường Nhật Bản:
Với số dân khoảng 125 triệu người Nhật Bản không những là thị trường nhập khẩu
hàng dệt may lớn của Việt Nam mà còn là là thị trường xuất khẩu truyền thống của công
ty dệt Minh Khai. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản luôn chiếm khoảng
80% - 90% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn công ty. Kể từ năm 1983 công ty bắt đầu tiếp
cận thị trường này, cho tới nay công ty đã thiết lập và duy trì được mối quan hệ làm ăn
lâu dài với các bạn hàng Nhật Bản. Có thể thấy đó là những nỗ lực rất lớn của công ty.
Thị trường Nhật Bản vẫn nổi tiếng là rất khắt khe và khó tính. Khách hàng Nhật Bản yêu
cầu kĩ càng về chất lượng, mẫu mã, giá cả và thời gian giao hàng trong đó chất lượng là
yêu cầu cơ bản và họ duy trì những tiêu chuẩn chất lượng bằng cách kiểm soát chất lượng
nghiêm ngặt, kiểm tra nguyên liệu sản xuất, kiểu dáng và công nghệ, kiểm tra bao bì đóng
gói. Chính phủ Nhật Bản quy định hàng dệt may nhập vào Nhật Bản phải an toàn, trên
bao bì phải ghi rõ kích cỡ, chất liệu và cách sử dụng. Giá cả cũng là một yếu tố mà người
tiêu dùng Nhật Bản quan tâm. Nếu sản phẩm của công ty không có ưu thế gì so với sản
phẩm khác cùng chủng loại thì công ty có thể cạnh tranh bằng giá cả, tức là bán với giá rẻ
hơn nhưng cần phải giải thích cụ thể những điểm khác biệt trong sản phẩm của công ty
như sản phẩm có thiết kế độc đáo, hoặc sử dụng nguyên vật liêu sản xuất mới, hoặc giá trị
gia tăng có được nhờ những điểm khác biệt này. Khách hàng Nhật Bản luôn tìm kiếm
những sản phẩm có những đặc điểm khác biệt. Hiện nay để cạnh tranh với các sản phẩm
cùng loại của Trung Quốc và một nhà cung ứng trong nước công ty dệt Minh Khai đã
chọn giảI pháp chú trọng tới chất lượng và mẫu mã sản phẩm các mặt hàng xuất khẩu.
Những năm gần đây, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Châu á, nền kinh tế Nhật
Bản có nhiều suy giảm, do đó nhu cầu tiêu dùng có giảm song sức tiêu thụ mặt hàng khăn
bông không vì thế mà giảm đi, trái lại vì đây là mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày của người dân Nhật Bản nên sức tiêu thụ hầu như vẫn giữ ở mức ổn định. Tuy
nhiên giá cả có xu hướng giảm xuống. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh số
bán hàng của công ty trên thị trường Nhật Bản.
Hơn nữa, hiện nay trên thị trường Nhật Bản công ty đang phải đối mặt với sự cạnh
tranh khốc liệt của các công ty sản xuất khăn bông Trung Quốc và của một số nước Đông
Nam á trong đó đặc biệt là từ Trung Quốc: sản phẩm khăn bông của công ty và sản phẩm
khăn bông của Trung Quốc tuy có chất lượng tương đương nhau, nhưng Trung Quốc lại
có lợi thế giá rẻ, do đó làm cho tốc độ tiêu thụ sản phẩm của công ty trên thị trường Nhật
Bản giảm xuống hẳn, gây ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động xuất khẩu của công ty.
2.3.2. Thị trường EU:
EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của VN, trên 40%
hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là xuất sang EU. Nhờ