Vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế có diện tích là 22.000 ha với chiều dài 68
km được cấu thành bởi các phần lãnh thổ của 5 huyện với 31 xã. Bờ Đông phá là cồn cát
ngăn cách đầm phá với biển Đông và bị gián đoạn qua 5 cửa biển: Hải Dương, Thuận An,
Hòa Duân (đã được nhà nước lấp cửa lại vào tháng 8/2000), Tư Hiền và Vinh Phong
(trong đó có ba cửa mới được mở trong đợt lụt 1999). Bờ Tây tiếp xúc với các cánh đồng
lúa và ba cửa sông lớn là: sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương nên được gọi là vùng đầm
phá Tam Giang. Đây là vùng đầm phá lớn nhất khu vực Đông Nam á. Vùng đầm phá Tam
Giang có nguồn lợi thủy sản phong phú với 12 loài tôm, 18 loài cua, 233 loài cá (trong đó
có 20 - 23 loài được coi là có giá trị kinh tế cao). Sản lượng khai thác bình quân hàng năm
là 2.500 tấn, cùng với sản lượng nuôi trồng và khai thác trên biển đã đóng góp gần 50%
toàn bộ kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Vùng đầm phá còn có vai trò to lớn đối với nghề
nuôi trồng thủy sản, là vị trí chiến lược giao thông, du lịch quan trọng, là nơi sinh sống của
trên 30% dân số Thừa Thiên - Huế. Nhưng theo điều tra của nhiều nhà nghiên cứu thì đa
số dân cư vùng đầm phá này đều thuộc diện nghèo đói. Đời sống của dân cư nói chung còn
gặp nhiều khó khăn thu nhập thấp và bấp bênh, các mặt khác của đời sống kinh tế xã hội
như: văn hóa, giáo dục, y tế... còn rất lạc hậu thậm chí còn xuống cấp. Cũng chính những
điều đó lại tác động tiêu cực đến việc bảo vệ, khai thác, quản lý các nguồn lực kinh tế vốn
còn rất nhiều tiềm năng ở vùng đầm phá. Gần mười lăm năm qua Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều chính sách, biện pháp nhằm chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế
của tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã có nhiều khởi sắc, tạo sự sống động đa dạng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh theo quy luật sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho các quan hệ
kinh tế xã hội phát triển. Phát triển sản xuất hàng hóa đối với tỉnh vừa là mục tiêu vừa là
nhiệm vụ cấp thiết hiện nay để nâng cao đời sống cho nhân dân cả về vật chất lẫn tinh
thần. Tuy nhiên, đối với vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế sản xuất ở đây còn mang tính tự
cung tự cấp, manh mún, phát triển kinh tế hàng hóa vẫn còn là vấn đề mới. Do đó nghiên
cứu thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá đang là yêu cầu
khách quan cần thiết cho vùng kinh tế được coi là một trong những trọng điểm kinh tế của
tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Tỉnh Đảng bộ.
92 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2141 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm
phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế có diện tích là 22.000 ha với chiều dài 68
km được cấu thành bởi các phần lãnh thổ của 5 huyện với 31 xã. Bờ Đông phá là cồn cát
ngăn cách đầm phá với biển Đông và bị gián đoạn qua 5 cửa biển: Hải Dương, Thuận An,
Hòa Duân (đã được nhà nước lấp cửa lại vào tháng 8/2000), Tư Hiền và Vinh Phong
(trong đó có ba cửa mới được mở trong đợt lụt 1999). Bờ Tây tiếp xúc với các cánh đồng
lúa và ba cửa sông lớn là: sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương nên được gọi là vùng đầm
phá Tam Giang. Đây là vùng đầm phá lớn nhất khu vực Đông Nam á. Vùng đầm phá Tam
Giang có nguồn lợi thủy sản phong phú với 12 loài tôm, 18 loài cua, 233 loài cá (trong đó
có 20 - 23 loài được coi là có giá trị kinh tế cao). Sản lượng khai thác bình quân hàng năm
là 2.500 tấn, cùng với sản lượng nuôi trồng và khai thác trên biển đã đóng góp gần 50%
toàn bộ kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Vùng đầm phá còn có vai trò to lớn đối với nghề
nuôi trồng thủy sản, là vị trí chiến lược giao thông, du lịch quan trọng, là nơi sinh sống của
trên 30% dân số Thừa Thiên - Huế. Nhưng theo điều tra của nhiều nhà nghiên cứu thì đa
số dân cư vùng đầm phá này đều thuộc diện nghèo đói. Đời sống của dân cư nói chung còn
gặp nhiều khó khăn thu nhập thấp và bấp bênh, các mặt khác của đời sống kinh tế xã hội
như: văn hóa, giáo dục, y tế... còn rất lạc hậu thậm chí còn xuống cấp. Cũng chính những
điều đó lại tác động tiêu cực đến việc bảo vệ, khai thác, quản lý các nguồn lực kinh tế vốn
còn rất nhiều tiềm năng ở vùng đầm phá. Gần mười lăm năm qua Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều chính sách, biện pháp nhằm chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế
của tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã có nhiều khởi sắc, tạo sự sống động đa dạng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh theo quy luật sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho các quan hệ
kinh tế xã hội phát triển. Phát triển sản xuất hàng hóa đối với tỉnh vừa là mục tiêu vừa là
nhiệm vụ cấp thiết hiện nay để nâng cao đời sống cho nhân dân cả về vật chất lẫn tinh
thần. Tuy nhiên, đối với vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế sản xuất ở đây còn mang tính tự
cung tự cấp, manh mún, phát triển kinh tế hàng hóa vẫn còn là vấn đề mới. Do đó nghiên
cứu thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá đang là yêu cầu
khách quan cần thiết cho vùng kinh tế được coi là một trong những trọng điểm kinh tế của
tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Tỉnh Đảng bộ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nhiều năm qua đã có nhiều nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu trong và
ngoài nước đã tiến hành nghiên cứu vùng đầm phá Thừa
Thiên - Huế.
- Luận chứng "Bảo vệ tự nhiên đất ngập nước đầm phá Tam Giang - Cầu Hai tỉnh
Thừa Thiên - Huế" của ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế tháng 10/ 1998. Do Sở
Khoa học, công nghệ và môi trường thực hiện.
- Dự án "Nghiên cứu quản lý nguồn lợi sinh học hệ đầm phá Tam Giang" của tổ
chức IDRC Canađa tài trợ do Đại học Huế thực hiện.
- Chuyên đề "Điều tra phương tiện, công cụ khai thác biển và đầm phá" của ủy
ban nhân dân tỉnh do Sở Thủy sản thực hiện.
- Hội thảo khoa học về "Đầm phá Thừa Thiên - Huế" do Bộ Khoa học công nghệ -
môi trường, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Bộ Thủy lợi phối hợp tổ chức.
- Chuyên đề "Điều tra đánh giá hiện trạng khai thác đầm phá" của ủy ban nhân
dân tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Đề án "Định canh định cư dân đầm phá tỉnh Thừa Thiên - Huế thời kỳ 1996 -
2000" của Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế.
- "Quản lý nguồn lợi thủy sản hệ đầm phá Tam Giang" của Nguyễn Quang Vinh
Bình, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 1996.
Và nhiều đề tài khác của Đại học Huế, Viện Hải dương học Hải Phòng, Nha
Trang, Đại học Thủy lợi Hà Nội đã nghiên cứu. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó
chủ yếu mới chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể của đầm phá hoặc nặng về nghiên cứu
ứng dụng, hoặc về nghiên cứu triển khai, hoặc về quản lý. Cho đến nay chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách tổng thể về thực trạng và hệ thống các giải pháp nhằm phát
triển kinh tế vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế theo hướng sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy
trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của những kết quả đã nghiên cứu và bằng
những nghiên cứu mới của mình tác giả chọn đề tài "Phát triển kinh tế hàng hóa vùng
đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế" làm đề tài nghiên cứu, nhằm đóng góp những ý kiến
nhỏ bé vào phát triển kinh tế xã hội của vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên - Huế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là luận giải những cơ sở khoa học về mặt kinh tế - xã hội,
môi trường và sinh thái cho giải pháp tổng thể khi xây dựng vùng đầm phá Tam Giang
thành vùng kinh tế hàng hóa phát triển.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ sau
đây:
+ Xác định cơ sở lý luận, quá trình hình thành và phát triển kinh tế vùng theo
hướng sản xuất hàng hóa.
+ Đánh giá được thực trạng phát triển kinh tế của vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế
những năm trước và sau trận lụt lịch sử, đồng thời xác định rõ nguyên nhân của những tồn
tại và những vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay.
+ Trình bày những định hướng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển kinh tế
hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu những nhân tố, yếu tố kinh tế xã
hội tác động đến việc phát triển sản xuất thủy sản hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên -
Huế. Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1995 đến nay. Không gian nghiên cứu là vùng
đầm phá Thừa Thiên - Huế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là hệ thống những quan điểm cơ bản của kinh
tế chính trị học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về kinh tế
và các vấn đề liên quan đến kinh tế.
Luận văn được nghiên cứu từ góc độ kinh tế chính trị học, sử dụng hệ thống các
phương pháp: phân tích và tổng hợp, lôgíc, lịch sử và phương pháp so sánh... Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng một số phương pháp đặc thù như thống kê, mô hình hóa, điều tra
khảo sát thực tế nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Nghiên cứu một cách tổng thể thực trạng kinh tế - xã hội, đề xuất những giải pháp
có tính khả thi phù hợp với hoàn cảnh đặc thù của vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, 3 chương 6 tiết, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
Chương 1
Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng và sự cần thiết
phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá
ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
1.1. Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng
1.1.1. Khái niệm kinh tế hàng hóa vùng, kinh tế hàng hóa vùng đầm phá
Thừa Thiên - Huế
Mỗi quốc gia là sự hợp thành của các lãnh thổ địa phương khác nhau. Mỗi nền
kinh tế cũng là sự hợp thành của các ngành, các lĩnh vực và vùng kinh tế. Theo cấp độ bộ
phận hợp thành, vùng kinh tế và các lãnh thổ địa phương có chung các đặc điểm và tính
chất của các tiểu hệ thống trong hệ thống lớn theo qui mô cả nước. Tuy nhiên lãnh thổ của
mỗi địa phương là địa giới không gian và nội dung quản lý của nhà nước trên không gian
xác định đó. Còn vùng kinh tế lại thể hiện giới hạn của một không gian vận động và phát
triển của các ngành, các yếu tố và các lĩnh vực kinh tế. Trên thực tế quá trình phát triển của
nền kinh tế chính là tổng hợp sự phát triển của các vùng kinh tế hợp thành. Mọi hoạt động
của bất cứ chủ thể kinh tế nào cũng đều vận động và phát triển trên những địa bàn nhất
định. Các chương trình dự án phát triển chỉ được tiến hành và đạt kết quả cụ thể trong mỗi
vùng kinh tế cụ thể. Do những phương pháp xác định và phân định vùng không giống nhau
nên có các quan niệm khác nhau về vùng kinh tế. Tuy nhiên, đặc trưng của các vùng kinh
tế là phải gắn với một lãnh thổ địa bàn không gian nhất định, trên đó có những hoạt động
phát triển kinh tế xã hội đặc thù. Một vùng kinh tế nhất thiết phải là một quy mô lãnh thổ,
song không nhất thiết phải xác định một cách ràng buộc theo quy mô diện tích lớn hay
nhỏ; vấn đề là ở chỗ các hoạt động kinh tế xã hội trên đó phải được tiến hành phát triển
một cách bình thường trong những điều kiện bình thường so với các vùng khác.
Trong tác phẩm "Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga" Lênin đã đưa ra khái
niệm về vùng kinh tế hàng hóa đặc trưng, thông qua việc phân tích về các "vùng ngũ cốc
thương phẩm", "miền chăn nuôi có tính chất thương phẩm", "sự phân hóa của nông dân
trong vùng sản xuất sữa", "vùng trồng lanh", "nghề trồng rau và nghề trồng cây ăn quả để
bán". Lênin không giới hạn ở khuôn khổ phân chia địa giới hành chính, Người viết: "Vùng
ngũ cốc thương phẩm - vùng này bao gồm những miền biên khu phía Nam và phía Đông
phần nước Nga thuộc Châu Âu, các tỉnh thảo nguyên xứ Nga mới và Đông sông Vôn - ga.
Tại đây đặc điểm của nông nghiệp là có tính chất quảng canh và sản xuất ra rất nhiều lúa
mì để bán" [28, 312]. Lênin đã lấy 8 tỉnh và chỉ rõ ở đó người ta trồng nhiều nhất là lúa mì,
tức là loại lúa chủ yếu để xuất khẩu. Với diện tích đất trồng lúa mì chiếm "37,6% đến
58,8%" [28, 312]. Theo Lênin việc xác định vùng kinh tế trong điều kiện cụ thể của nước
Nga Xô viết, với qui mô đang được nói đến là kinh tế miền Nam, có thể căn cứ vào nguyên
tắc kinh tế chuyên môn hóa gắn với tính chất thương phẩm của các ngành kinh tế và đồng
thời cũng căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế được xác định trong vùng. Chung quy lại là
việc phân định vùng kinh tế căn bản dựa trên nguyên tắc kinh tế, không phụ thuộc vào địa
giới lịch sử hành chính. Các tỉnh khác nhau nhưng có điều kiện phát triển sản xuất những
loại hàng hóa giống nhau tạo thành vùng kinh tế hàng hóa.
Đặc thù của mỗi vùng kinh tế là cơ sở phát triển riêng có của vùng đó như tài
nguyên, nhân văn, tỷ trọng khác nhau giữa các ngành hay tiểu vùng. Mức độ tương đồng
nhất định về cơ cấu kinh tế của mỗi vùng được bố trí phù hợp với sự phân công và chuyên
môn hóa chung trong nền kinh tế lại tạo nên những tiền đề của mối liên hệ giữa các vùng,
là cơ sở của mối liên kết, ràng buộc lẫn nhau của các vùng. Sự khác nhau giữa các vùng
kinh tế chủ yếu là ở những hoạt động kinh tế đặc thù nhất định của vùng, làm cho mỗi
vùng hoàn toàn không đồng nhất với các vùng khác: "Chúng ta nói sang một miền khác rất
quan trọng của CNTB nông nghiệp ở Nga, tức là: miền ở đó không phải ngũ cốc chiếm ưu
thế, mà sản phẩm chăn nuôi chiếm ưu thế... Năng suất của súc vật ở đây là nhằm phục vụ
công nghiệp sữa và toàn bộ nông nghiệp đều nhằm đạt được thật nhiều sản phẩm hàng hóa
thật quý thuộc loại đó" [28, 319]. Trạng thái phát triển đặc thù trong phân công lao động
xã hội đã quy định tính độc lập của các vùng chỉ ở mức độ tương đối. Chính đặc điểm
thống nhất nhưng không đồng nhất này là yếu tố căn bản, quyết định các vùng trở thành
các tiểu hệ thống trong hệ thống chung của nền kinh tế.
Là tiểu hệ thống nên mỗi vùng cũng có cấu trúc hệ thống riêng đặc thù, bao gồm
các tiểu vùng, hợp thành từ các địa phương với những đặc điểm và điều kiện phát triển trên
cùng không gian vùng, song lại có những dị biệt nhất định, hoặc về tài nguyên sinh thái
hoặc về đặc điểm nhân văn, hoặc về trình độ công nghệ kỹ thuật. Song mức độ khác biệt
này không tạo nên những phân biệt rõ rệt trong trạng thái phát triển và bên cạnh đó, mức
độ gắn kết giữa các tiểu vùng dựa trên những cơ sở vững chắc hơn do có chung những đặc
điểm đặc trưng của toàn vùng.
Sau cách mạng Tháng Mười khi thực hiện kế hoạch "điện khí hóa toàn Nga" Lênin
cho rằng vấn đề phân định và phát triển các vùng kinh tế một cách khoa học có ý nghĩa lớn
lao và Người tán thành bản báo cáo về phân vùng kinh tế của ủy ban kế hoạch nhà nước
gửi cho hội nghị lần thứ III của Ban chấp hành trung ương toàn Nga. Bản báo cáo cho
rằng: Vùng kinh tế là một tổng thể sản xuất đặc biệt, nó có thể cho phép liên hợp cao độ
các nhiệm vụ kinh tế, đó là nội dung biện pháp xây dựng vùng kinh tế mà các công trình
của chúng ta lấy làm cơ sở. Biện pháp đó cho phép phân chia quốc gia ra thành các vùng
thực hiện những chức năng riêng trong bộ máy kinh tế chung của đất nước, có nghĩa là
biến quốc gia thành một bộ máy kinh tế hoàn chỉnh dựa vào sự hợp tác của vùng sản xuất.
Nhờ đó mà kết hợp được sự thống nhất giữa phân công lao động xã hội với việc mở rộng
sáng kiến của các địa phương trên cơ sở kế hoạch chung.
Thực tiễn của nền kinh tế Xô viết về bố trí cơ cấu và phát triển các vùng kinh tế
theo các năng lực kinh tế và chuyên môn hóa đã hoàn toàn chứng minh sự đúng đắn của
Lênin về vấn đề này.
Tuy nhiên, với bản chất không ngừng phát triển và hoàn thiện, học thuyết Mác -
Lênin cũng như các luận thuyết kinh tế của học thuyết này đòi hỏi phải thường xuyên được
bổ sung bằng thực tiễn kinh tế xã hội đang không ngừng vận động phát triển và gắn liền
với những thành tựu tiên tiến của khoa học, kỹ thuật. Do đó, cho đến nay, với bối cảnh
quốc tế có nhiều thay đổi, bên cạnh những nguyên tắc không thể phủ định của việc phân
định và bố trí phát triển các vùng kinh tế và thực tiễn phát triển của kinh tế thị trường; cơ
sở phát triển các vùng kinh tế lãnh thổ đã và đang tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện,
nhằm phát huy tối ưu các nguồn lực phát triển của các vùng, nâng cao trình độ phân công
và chuyên môn hóa trong nền kinh tế, phát triển đất nước bền vững.
Trong kinh tế học phát triển, khi phân tích về kinh tế vùng người ta đã lưu ý đến
khái niệm vùng thông qua việc phân định các loại vùng. Có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm dựa trên chiến lược phát triển cụ thể trong từng giai đoạn của quốc gia đã phân
loại vùng trọng điểm hay vùng chương trình. Vùng này nằm trong quy hoạch chiến lược
phát triển dài hạn của đất nước, là trung tâm có tác dụng thúc đẩy các vùng khác trong
tổng thể nền kinh tế phát triển. Vùng chương trình có thể là vùng phát triển toàn diện các
ngành kinh tế, nhưng cũng có thể lựa chọn các ngành mũi nhọn cho từng giai đoạn phát
triển của vùng phù hợp với nhu cầu của quốc gia. Các quan điểm khác xem xét mối tương
quan giữa thành thị và nông thôn lại phân chia vùng kinh tế thành thị và vùng kinh tế nông
thôn ngoại vi, theo đó ngoại vi được bố trí trong chiến lược phát triển đô thị và phục vụ
cho quá trình đô thị hóa...
Qua sự phân tích lý luận về kinh tế vùng trên đây theo chúng tôi có thể rút ra một
số điều kiện phân định vùng kinh tế là:
- Một lãnh thổ có các điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý tương đồng nhau.
- Trình độ phát triển kinh tế tương đối đồng nhất trong địa bàn.
- Có đặc trưng của các nguồn lực phát triển tương đồng nhau.
- Các nhóm xã hội và xu hướng vận động của các nhóm xã hội. Quan hệ kinh tế
của các nhóm xã hội, của các doanh nghiệp, của các đơn vị hành chính... có tác dụng thúc
đẩy hay kìm hãm sự phát triển của các vùng lân cận.
- Đặc trưng khác biệt của vùng với các vùng khác.
- Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Như vậy, có thể hiểu vùng kinh tế (hay tiểu vùng kinh tế) là một lãnh thổ có điều
kiện tự nhiên và vị trí địa lý tương đồng nhau, có các nguồn lực phát triển tương đồng
nhau với trình độ phát triển kinh tế tương đối đồng nhất, có các nhóm xã hội quan hệ với
nhau có tác dụng thúc đẩy kinh tế của vùng và của các vùng lân cận.
Đối với nước ta sau khi giành chính quyền đất nước được phân định thành các liên
khu, phù hợp với điều kiện quản lý hành chính và kinh tế trong thời gian đó. Sau khi hòa
bình được lập lại yêu cầu của công cuộc khôi phục đất nước và phát triển nền kinh tế đã
đặt ra nhiệm vụ xác định nhu cầu và năng lực phát triển của đất nước trên từng vùng lãnh
thổ, khả năng bố trí các ngành kinh tế trọng điểm trên mỗi địa phương, mỗi khu vực. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra nhiệm vụ: phải phân bố hợp lý sức sản
xuất ở đồng bằng, trung du và miền núi, điều chỉnh sức người giữa các vùng, quy hoạch
từng bước các vùng kinh tế, thực hiện sự phân công phối hợp giữa các vùng với nhau. Đến
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa III) tháng 7/1961 về phát triển nông
nghiệp đã đặt vấn đề phân vùng nông nghiệp và xác định cách phân vùng nông nghiệp, sử
dụng một cách hợp lý nhất các tài nguyên phong phú của đất nước và sức lao động của
nhân dân. Thời gian này ủy ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với Bộ Nông nghiệp xây
dựng dự án phân chia miền Bắc thành bốn vùng nông nghiệp lớn và gồm 46 tiểu vùng. Dự
án này đã được chính phủ xem xét nhưng chưa được chính phủ phê chuẩn. Sau năm 1975
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã đặc biệt chú ý đến vấn đề phát triển vùng và xác
định tiến hành phân vùng, quy hoạch sản xuất để phát triển tất cả các vùng, sớm hình thành
những khu vực lớn, sản xuất tập trung, chuyên môn hóa. Đại hội đã phân định nước ta
thành bốn vùng kinh tế lớn là: Vùng đồng bằng, vùng trung du, vùng miền núi và vùng
miền biển. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã phân định nước ta thành bảy vùng
kinh tế gồm: Đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ,
Duyên hải Trung bộ, Khu bốn cũ và Thanh Hóa, miền núi và trung du phía bắc, Tây
Nguyên. Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng kế thừa cách phân định vùng kinh tế của Đại
hội V. Đến Đại hội VIII của Đảng, việc phân định các vùng kinh tế cơ bản lại được đề cập
theo quan điểm là dựa trên cơ sở tiềm năng và chuyên môn hóa hoàn toàn, không phụ
thuộc vào không gian địa lý lãnh thổ theo đó nền kinh tế quốc dân được phân định thành
bốn vùng lớn là: Vùng kinh tế đô thị, vùng đồng bằng, vùng miền núi, vùng kinh tế biển.
Theo cách phân loại này chỉ có thể làm căn cứ cho việc đánh giá và sử dụng một cách tổng
hợp các nguồn lực tài nguyên phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô, nhưng lại gặp trở ngại
trong quá trình quy hoạch và thực thi phát triển các dự án theo chiến lược phát triển tổng
thể của cả nước. Vì vậy trên thực tế chính phủ đã tiến hành tổ chức nền kinh tế trên quy
mô lãnh thổ bao gồm tám vùng: 1. Vùng Tây Bắc, 2. Vùng Đông Bắc, 3. Vùng đồng bằng
sông Hồng, 4. Vùng Bắc Trung bộ, 5, Vùng Nam Trung Bộ, 6. Vùng Tây Nguyên, 7. Vùng
Đông Nam Bộ, 8. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng đã nêu định hướng phát triển các
vùng lãnh thổ theo 6 vùng, đó là:
1- Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
2- Đồng bằng sông Hồng và vùng trọng điểm Bắc Bộ.
3- Duyên hải Trung Bộ và vùng trọng điểm miền Trung.
4- Vùng Tây Nguyên.
5- Vùng miền Đông Nam Bộ và trọng điểm phía Nam.
6- Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ năm 1993 bắt đầu một giai đoạn mới về phát triển kinh tế vùng ở nước ta. Về
quy mô, thời gian và không gian tất cả các vùng kinh tế này đều đồng thời được tiến hành
xây dựng quy hoạch phát triển tổng thể, thực hiện các cuộc điều tra cơ bản và toàn diện để
lập nên các căn cứ khoa học và thực tiễn cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế vùng. Việc
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế đất nước, trong đó có kinh tế vùng không chỉ là
những nỗ lực quan trọng của công tác quản lý và chỉ đạo phát triển kinh tế nói chung, mà
thực sự là bước nhảy vọt trong lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế vùng. Quá trình phân
vùng đã chú trọng đến các chỉ tiêu giá trị theo tính chất đặc thù về kinh tế sinh thái và nhân
văn của mỗi vùng để tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn hóa theo quy mô vùng. Lần
đầu tiên trong nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện các vùng kinh tế phát triển trọng điểm
(còn gọi là các tam giác tăng trưởng) đó là:
1. Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
2. Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Bà Rịa Vũng Tàu.
3. Quảng Nam - Đà Nẵng - Dung Quất
Cách xác định các vùng kinh tế phát triển trọng điểm này phản ánh rõ đặc trưng bố
trí các cự