Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định một trong những nhiệm
vụ hàng đầu ở nước ta là: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"
[27, tr.9].
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định phát triển lực
lượng sản xuất là vấn đề quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo tiềm lực kinh
tế đủ mạnh từng bước hội nhập kinh tế quốc tế để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội,
con đường mà chúng ta đã lựa chọn. Trên cơ sở đó từng bước xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn cụ thể.
Cùng với cả nước, tỉnh Yên Bái đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
những đặc điểm riêng của mình. Là một tỉnh miền núi Tây Bắc, có nhiều dân tộc anh em,
tỉnh Yên Bái có nhiều tiềm năng về kinh tế, có vị trí quan trọng về chính trị, quốc phòng và
an ninh. Do vậy, việc tổng kết thực tiễn, vận dụng lý luận vào cuộc sống rút ra những bài
học, kinh nghiệm để phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết đối với cả lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi chọn vấn đề: " Phát triển lực lượng sản xuất
ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay " làm đ ề tài luận
văn thạc sỹ, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và địa ph ương.
114 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 4042 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên
Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định một trong những nhiệm
vụ hàng đầu ở nước ta là: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"
[27, tr.9].
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định phát triển lực
lượng sản xuất là vấn đề quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo tiềm lực kinh
tế đủ mạnh từng bước hội nhập kinh tế quốc tế để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội,
con đường mà chúng ta đã lựa chọn. Trên cơ sở đó từng bước xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn cụ thể.
Cùng với cả nước, tỉnh Yên Bái đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
những đặc điểm riêng của mình. Là một tỉnh miền núi Tây Bắc, có nhiều dân tộc anh em,
tỉnh Yên Bái có nhiều tiềm năng về kinh tế, có vị trí quan trọng về chính trị, quốc phòng và
an ninh. Do vậy, việc tổng kết thực tiễn, vận dụng lý luận vào cuộc sống rút ra những bài
học, kinh nghiệm để phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết đối với cả lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi chọn vấn đề: " Phát triển lực lượng sản xuất
ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay " làm đề tài luận
văn thạc sỹ, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua xoay quanh vấn đề "Phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập. Những kết
quả nghiên cứu này có giá trị lịch sử nhất định. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động biến
đổi và phát triển nên mọi kết luận tổng kết vẫn cần được bổ sung, phát triển.
Những công trình, bài viết tiêu biểu xoay quanh vấn đề này là: Nghiên cứu về biểu
hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Luận án phó tiến
sĩ, Nguyễn Tĩnh Gia, 1987); Nghiên cứu về quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế hàng hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng (Luận án phó tiến sĩ, Bùi Chí Kiên, 1996); Từng
bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn
(Luận án tiến sĩ, Nông Thị Mồng, 2000); Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi
phía Bắc nước ta (Luận án tiến sĩ, Vi Thái Lang, 2002); Nghiên cứu nguồn lực con người
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Luận án tiến sĩ, Đoàn Văn Khái, 2000);
… Lê Xuân Đình, Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, Tạp chí Cộng sản, số 5
(03/1999); Lê Huy Ngọ, Khoa học - công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa nông
nghiệp, nông thôn sang bước phát triển mới, Tạp chí Cộng sản số 3 (02-1999), Nguyễn
Cảnh Hồ, có phải khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, Tạp chí Triết
học, số 2 (02/2002); Lê Văn Dương, vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Tạp chí Triết
học, số 1 (01/2002)…. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Phát triển kinh tế - xã hội các
vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998; Mai Quốc Chánh, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Lương Xuân
Quỳ, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công
bằng, xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002...
Song, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên bàn về việc phát triển
lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới dạng một
luận văn khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích đề tài: Trên cơ sở phân tích thực trạng vấn đề phát triển lực lượng sản
xuất ở tỉnh Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, luận văn phát hiện
vấn đề nảy sinh và đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển lực lượng sản xuất,
thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Yên Bái.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của lực lượng sản xuất trong
sự phát triển xã hội.
+ Phân tích, đánh giá sự phát triển lực lượng sản xuất của Yên Bái trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chỉ ra những mâu thuẫn trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái.
+ Phân tích triển vọng, phương hướng và giải pháp nhằm phát triển lực lượng sản
xuất ở tỉnh Yên Bái.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở
tỉnh Yên Bái trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay (tất nhiên đặt nó trong
quan hệ với quan hệ sản xuất).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Cùng với các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát
triển lực lượng sản xuất. Đề tài còn kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học, các bài viết đã được công bố có liên quan đến đề tài.
- Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử để
phân tích, đánh giá sự phát triển của lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái. Ngoài ra luận văn
còn sử dụng những phương pháp khác như thống kê, khảo sát, tổng hợp so sánh.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá đúng thực trạng sự phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái, xu
hướng vận động và phát triển của lực lượng sản xuất thời kỳ CNH, HĐH ở tỉnh Yên Bái.
- Đưa ra những phương hướng, giải pháp đặc thù sự phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh
Yên Bái.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về lực lượng sản xuất và vai trò
của lực lượng sản xuất đối với CNH, HĐH.
- Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các ban ngành của tỉnh tham
khảo trong việc hoạch định các chính sách nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
đồng thời luận văn còn là tư liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu,
giảng dạy bộ môn Mác - Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương,
6 tiết.
Chương 1
Vai trò của lực lượng sản xuất đối với
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1. Vị trí của lực lượng sản xuất trong sự phát triển xã hội
1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất
Quan niệm duy vật lịch sử chỉ ra rằng: "Cái sự thật hiển nhiên là trước hết con
người cần phải ăn, uống, ở và mặc..." [56, tr.166]. Điều đó có nghĩa là để tồn tại và phát
triển, con người phải tiến hành sản xuất vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất là hành vi
đầu tiên của con người cũng như lịch sử loài người. Trong quá trình sản xuất con người
biến đổi giới tự nhiên, biến đổi đời sống xã hội, đồng thời biến đổi chính bản thân mình.
Sự sản xuất ra đời sống bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của
người khác bằng việc sinh con đẻ cái biểu hiện ra là một quan hệ "kép"; quan hệ với tự
nhiên và quan hệ với xã hội, quan hệ với xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều
người, kể cả là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì ? Trong đó
quan hệ của con người với tự nhiên trong sản xuất được biểu hiện là lực lượng sản xuất,
còn quan hệ giữa người với người trong sản xuất được biểu hiện là quan hệ sản xuất.
Trong quan hệ "kép" này, vai trò quyết định cuối cùng thuộc về lực lượng sản xuất của xã
hội bởi lẽ "Tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đã đạt được quyết định
trạng thái xã hội" [52, tr.42]. Vậy lực lượng sản xuất là gì ? Quan điểm của chủ nghĩa
Mác về vấn đề này như thế nào?
Khi nói tới hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác, Ph.ănghen và Lênin không bàn
nhiều về định nghĩa và các khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà các ông
trình bày thông qua quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực
lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với việc
vận dụng phép biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề của lịch sử đã làm cho
C.Mác và Ph.ănghen tiến một bước vượt bậc so với những nhà tư tưởng trước.
Thuật ngữ "lực lượng sản xuất" lần đầu tiên được C.Mác nêu lên trong tác phẩm Hệ
tư tưởng Đức và được phát triển làm rõ thêm ở trong các tác phẩm: "Sự khốn cùng của
triết học", "Lao động làm thuê và tư bản", "Tiền công, giá cả và lợi nhuận" và nhất là
trong "Bộ tư bản". Thông qua việc phân tích, làm rõ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất mà C.Mác đã chỉ ra bản chất của lực
lượng sản xuất. Nhưng khái niệm lực lượng sản xuất chưa được C.Mác phát biểu một
cách hoàn chỉnh dưới dạng định nghĩa do vậy còn nhiều quan điểm khác nhau về lực
lượng sản xuất. Trong lịch sử phát triển của triết học các nhà triết học đưa ra nhiều định
nghĩa khác nhau về lực lượng sản xuất. Về các định nghĩa khác nhau của lực lượng sản
xuất nhiều luận văn, luận án trước đã trình bày. ở đây theo chúng tôi hiểu, lực lượng sản
xuất là hệ thống phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất trong
quá trình sản xuất vật chất của xã hội nhất định.
Nó là hệ thống những phương thức kết hợp chứ không phải chỉ một kiểu kết hợp.
Hình thức biểu hiện của lực lượng sản xuất đó là quan hệ giữa con người và tự nhiên,
C.Mác viết: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người ta và giới tự
nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian
điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [58, tr.266]. Nghĩa là con người
phải dựa vào tự nhiên, có mối quan hệ gắn bó với giới tự nhiên, trao đổi chất với tự
nhiên. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong đó
con người tác động vào tự nhiên biến đổi tự nhiên phục vụ chính bản thân mình hay còn
là quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra thiên nhiên thứ hai (tạo ra của cải vật chất mới
được gọi là lực lượng sản xuất).
Lực lượng sản xuất bao gồm lao động sống (người lao động với kỹ năng và kinh
nghiệm lao động của họ) và tư liệu sản xuất (công cụ lao động, đối tượng lao động,
phương tiện sản xuất). Ngày nay khoa học đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.
Nhân tố đầu tiên của lực lượng sản xuất chính là người lao động - yếu tố giữ vị trí
hàng đầu, chủ yếu của lực lượng sản xuất. V.I. Lênin nói: "Lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" [50, tr.430]. Vì chỉ có con
người và xã hội loài người mới có sản xuất, "Điều khác biệt căn bản giữa xã hội loài
người với xã hội loài vật là ở chỗ: Loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm, trong khi con người
sản xuất" [60, tr.241].
Trong quá trình tác động vào tự nhiên sản xuất ra của cải vật chất, con người không
chỉ với cơ bắp sức lực mà còn dùng cả những tri thức, kinh nghiệm kỹ năng, kỹ xảo để
tác động vào tự nhiên, tạo ra những sản phẩm vật chất có hiệu quả nhất. Chính con người
tạo ra tất cả những phương tiện máy móc, tạo ra công cụ lao động, tác động vào đối
tượng lao động, tạo ra phương tiện sản xuất để cho hoạt động sản xuất của con người
ngày một nâng cao. C.Mác viết: "Một vật do bản thân tự nhiên cung cấp đã trở thành một
khí quan của sự hoạt động của con người, khí quan mà con người đem chắp vào những
khí quan của cơ thể mình, và do đó kéo dài cái tầm thước tự nhiên của cơ thể đó…" [58,
tr.268].
Những tư liệu sản xuất dù quan trọng đến đâu thì riêng bản thân chúng cũng không tạo ra
được của cải vật chất, nó chỉ có tác dụng khi con người sử dụng.
Cùng với việc tạo ra công cụ sản xuất, con người còn sử dụng những công cụ đó để
làm ra của cải vật chất cho xã hội. Từ những công cụ thủ công bằng đá, bằng đồng, bằng
sắt, con người tiến tới chế tạo máy móc với kỹ thuật mới, công nghệ mới. Trên cơ sở vận
dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, ngày nay
con người bước những bước kỳ diệu trong việc chinh phục tự nhiên. Cũng chính sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật sản xuất đòi hỏi lao động của con người trở thành lao động có
trí tuệ và lao động trí tuệ. Mà trí tuệ con người không phải là cái gì siêu nhiên, nó là sản
phẩm của tự nhiên của lao động, trí tuệ hình thành và phát triển cùng với lao động làm
cho sản phẩm của lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao. Do đó người lao động
cần phải được tăng cường tri thức trên mọi lĩnh vực.
Trong lực lượng sản xuất, con người và tư liệu sản xuất có mối liên hệ hữu cơ. Nó
chính là hệ thống những phương thức kết hợp trong quá trình sản xuất của cải vật chất
của xã hội. Trong lực lượng sản xuất, cụ thể trong tư liệu sản xuất công cụ lao động là
yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, nó chính là tiêu chí cơ bản thể hiện trình độ
trinh phục tự nhiên của con người.
Công cụ lao động là cái vật hóa trí tuệ và tài năng sáng tạo của con người. Với mục
đích tăng năng suất lao động và giảm cường độ lao động, con người đã sáng tạo ra công
cụ lao động. Nhờ đó công cụ lao động ngày càng được cải tiến hiện đại. Trình độ của
công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để
phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. C.Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với
những tư liệu lao động nào" [58, tr.269].
Công cụ lao động là cầu nối giữa người lao động với đối tượng lao động. Để tác
động vào đối tượng lao động bắt buộc con người phải sử dụng công cụ lao động, để cải
biến những vật liệu sẵn có trong tự nhiên thành những vật phẩm theo yêu cầu mục đích
sử dụng của con người. Công cụ lao động hiện thực hóa cái trừu tượng của tư duy con
người. Sức mạnh vật chất bao giờ cũng là sức mạnh hiện thực. Khi công cụ sản xuất thay
đổi hoàn thiện và phát triển thì kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động cũng thay
đổi, phát triển hoàn thiện và được nâng cao. Công cụ lao động (công cụ sản xuất) có thể
là một vật thể hay là một phức hợp những vật thể (tùy theo tính chất của việc sản xuất sản
phẩm). Nó có nhiệm vụ dẫn truyền sự tác động của con người với đối tượng lao động để
tạo ra của cải vật chất.
Lịch sử phát triển loài người được đánh dấu bằng những mốc quan trọng trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là của công cụ lao động. Thời trung cổ, công
cụ lao động giản đơn thô sơ lạc hậu như vật liệu bằng đá, bằng đồng, bắng sắt. Thời cận,
hiện đại công cụ bằng máy móc, hơi nước, máy dệt… Ngày nay dưới tác động của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, nhiều công cụ lao động phát triển thành hệ thống thiết bị
tự động và ngày càng phát triển. Người lao động dần tách khỏi quá trình sản xuất trực
tiếp, đóng vai trò kiểm tra và điều hành sự vận động của hệ thống tự động.
Trong tư liệu sản xuất nếu yếu tố công cụ lao động là cầu nối giữa người lao động
với đối tượng lao động thì đối tượng lao động cũng thể hiện rõ rệt vai trò của nó. C.Mác
nói: "Công nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết nếu không có giới tự nhiên, nếu không
có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của anh ta được thực
hiện, trong đó lao động của anh ta được triển khai, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta
sản xuất ra sản phẩm" [62, tr.130]. Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên mà
lao động của con người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục
đích của con người. Đối tượng của lao động tồn tại dưới hai dạng, trước hết là dạng có
sẵn trong tự nhiên, con người tách nó ra khỏi mối liên hệ trực tiếp với tự nhiên và biến
thành sản phẩm như gỗ trong rừng nguyên thủy, quặng dưới lòng đất, tôm cá dưới sông
biển… Thứ đến là dạng đã trải qua lao động chế biến như than trong nhà máy nhiệt điện,
sắt, thép, để chế tạo máy móc. Đối tượng lao động thuộc dạng này còn gọi là nguyên liệu.
Chúng thuộc đối tượng của các ngành công nghiệp chế biến. Tuy nhiên, không phải mọi
dạng vật chất có sẵn trong tự nhiên đều là đối tượng lao động mà chỉ có những dạng vật
chất có khả năng tạo ra những vật phẩm theo những mục đích, yêu cầu đáp ứng những
nhu cầu nào đó của con người, và được con người tác động, khai thác, cải tạo thì chúng
mới trở thành đối tượng của lao động. Khi khoa học công nghệ càng cao, sản xuất xã hội
càng phát triển, khả năng cải tạo tự nhiên của con người ngày càng lớn thì khi đó ngày
càng nhiều dạng vật chất trở thành đối tượng lao động.
Cũng cần lưu ý rằng mọi nguyên liệu đều là đối tượng của lao động nhưng không
phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. C.Mác nói: "Mọi nguyên liệu đều là đối
tượng lao động, nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. Đối tượng
của lao động chỉ trở thành nguyên liệu khi đã trải qua một sự biến đổi nào đó do lao động
gây ra". Trong tương lai nguyên liệu tự nhiên cạn kiệt và được thay bằng những vật liệu
không có trong tự nhiên, tương lai sử dụng những nguyên liệu "nhân tạo" thay thế cho
dạng nguyên liệu truyền thống, tuy nhiên những nguyên liệu "nhân tạo" đó cũng đều bắt
nguồn từ tự nhiên.
Trong tư liệu sản xuất, ngoài công cụ lao động và đối tượng lao động còn có
phương tiện sản xuất, kết cấu hạ tầng bao gồm: hệ thống dịch vụ, đường xá, cầu cống,
bến bãi, nhà kho, thông tin… những yếu tố này không trực tiếp tạo ra sản phẩm. Trước
đây nó chỉ mang nghĩa dịch chuyển giá trị bên ngoài, không được coi trọng thì nay được
nhận thức lại và thấy rằng nó có ảnh hưởng lớn tới giá trị sản phẩm, đến sản xuất, nó là
yếu tố nội sinh của quá trình sản xuất, góp phần tạo ra giá trị mới. Sản phẩm hàng hóa
làm ra chính nhờ kết cấu hạ tầng này mà có thể tăng giảm giá trị sản phẩm, dịch
chuyển… Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện nay, lực lượng sản
xuất không chỉ bao gồm đối tượng lao động, phương tiện và công cụ lao động, con người lao
động với những tập quán, thói quen, kỹ năng kinh nghiệm và tri thức lao động của mình mà
còn có cả yếu tố khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất
riêng, vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, đem lại sự thay đổi về
chất của lực lượng sản xuất. C.Mác đã dự đoán khoa học sẽ trở thành "lực lượng sản xuất
trực tiếp", trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác và ăngghen viết: "Những lực lượng sản
xuất, nhất là những phát minh, đã đạt được một địa phương có mất đi hay không đối với sự
phát triển sau này điều đó chỉ phụ thuộc vào sự mở rộng của giao tiếp thôi" [52, tr.79].
C.Mác đã chỉ rõ điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất:
Những lực lượng tự nhiên như hơi nước, nước,… được áp dụng vào quá
trình sản xuất cũng không tốn kém gì cả. Nhưng con người cần có phổi để thở,
thì tư bản cũng cần có "một sản phẩm của bàn tay con người", để có thể tiêu
dùng một cách sản xuất những lực lượng của tự nhiên. Cần phải có một cái xe
nước để có thể lợi dụng được sức đẩy của nước, cần phải có một máy hơi nước
để có thể lợi dụng được tính đàn hồi của hơi nước. Đối với khoa học thì cũng
giống như đối với các lực lượng tự nhiên [58, tr.557].
Rồi Mác đưa ra d