Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế như thời
gian gần đây. Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa và vai trò ngày càng tăng của nó trong
thế giới hiện đại đang đặt ra hàng loạt vấn đề cấp bách cho nghiên cứu khoa học về văn
hóa. Mặt khác, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về văn hóa đã đem lại những khả
năng to lớn cho con người trong việc nhận thức sâu sắc và toàn diện về văn hóa. Một
nhà khoa học Mỹ - P. Smith đã từng nói:
Khả năng hiểu biết văn hóa trở nên một phần thiết yếu của bổn phận
làm một công dân tốt. Và chính lý thuyết văn hóa đã cung cấp cho chúng ta
một nguồn quan trọng giúp ta thực hiện được điều này. Lý thuyết văn hóa
cung cấp cho chúng ta những mẫu hình cơ bản, các khái niệm có thể áp dụng
được trong đời sống cá nhân, đời sống tập thể và trí tuệ chúng ta [52, tr.3].
Đối với nước ta, trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay, rất nhiều vấn đề bức xúc trên lĩnh vực văn hóa đang đặt ra đòi hỏi
lực lượng nghiên cứu văn hóa phải có trách nhiệm giải đáp.
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ năm
khoá VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã
mở ra một bước mới cho công tác nghiên cứu văn hóa. Đồng thời, nhiệm vụ đặt trên vai
đội ngũ nghiên cứu văn hóa càng nặng hơn. Đó là: vừa nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn, vừa định hướng phát triển và dự báo tương lai, góp phần thực hiện mục tiêu
văn hóa mà Đảng ta đã khẳng định. Nhiệm vụ to lớn đó không chỉ tác động đến tình
hình văn hóa của những năm đổi mới mà còn ảnh hưởng của cả tiến trình vận động lâu
dài của văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết của Đảng cũng đã chỉ ra những hạn chế trên phương diện nghiên cứu
lý luận văn hóa:
Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến
văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền
thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan
hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và chính trị,
văn hóa và kinh tế... [18, tr.23].
Do đó, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận văn hóa để đáp ứng được với yêu
cầu của sự phát triển đất nước là vấn đề đang đặt ra hiện nay. Bên cạnh việc tiếp thu các
thành tựu các lý thuyết văn hóa của thế giới đương đại thì việc khai thác những kết quả
nghiên cứu văn hóa trong nước từ trước đến nay rất có ý nghĩa đối với công tác nghiên
cứu hiện nay. Những kết quả này gắn liền với thế kỷ XX - thế kỷ đánh dấu những bước
chuyển to lớn của văn hóa Việt Nam.
Xuất phát từ lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Quá trình nhận thức lý luận về văn
hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Văn hóa học.
93 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1784 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quá trình nhận thức lý luận về văn
hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đến năm 1945
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế như thời
gian gần đây. Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa và vai trò ngày càng tăng của nó trong
thế giới hiện đại đang đặt ra hàng loạt vấn đề cấp bách cho nghiên cứu khoa học về văn
hóa. Mặt khác, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về văn hóa đã đem lại những khả
năng to lớn cho con người trong việc nhận thức sâu sắc và toàn diện về văn hóa. Một
nhà khoa học Mỹ - P. Smith đã từng nói:
Khả năng hiểu biết văn hóa trở nên một phần thiết yếu của bổn phận
làm một công dân tốt. Và chính lý thuyết văn hóa đã cung cấp cho chúng ta
một nguồn quan trọng giúp ta thực hiện được điều này. Lý thuyết văn hóa
cung cấp cho chúng ta những mẫu hình cơ bản, các khái niệm có thể áp dụng
được trong đời sống cá nhân, đời sống tập thể và trí tuệ chúng ta [52, tr.3].
Đối với nước ta, trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay, rất nhiều vấn đề bức xúc trên lĩnh vực văn hóa đang đặt ra đòi hỏi
lực lượng nghiên cứu văn hóa phải có trách nhiệm giải đáp.
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ năm
khoá VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã
mở ra một bước mới cho công tác nghiên cứu văn hóa. Đồng thời, nhiệm vụ đặt trên vai
đội ngũ nghiên cứu văn hóa càng nặng hơn. Đó là: vừa nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn, vừa định hướng phát triển và dự báo tương lai, góp phần thực hiện mục tiêu
văn hóa mà Đảng ta đã khẳng định. Nhiệm vụ to lớn đó không chỉ tác động đến tình
hình văn hóa của những năm đổi mới mà còn ảnh hưởng của cả tiến trình vận động lâu
dài của văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết của Đảng cũng đã chỉ ra những hạn chế trên phương diện nghiên cứu
lý luận văn hóa:
Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến
văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền
thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan
hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và chính trị,
văn hóa và kinh tế... [18, tr.23].
Do đó, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận văn hóa để đáp ứng được với yêu
cầu của sự phát triển đất nước là vấn đề đang đặt ra hiện nay. Bên cạnh việc tiếp thu các
thành tựu các lý thuyết văn hóa của thế giới đương đại thì việc khai thác những kết quả
nghiên cứu văn hóa trong nước từ trước đến nay rất có ý nghĩa đối với công tác nghiên
cứu hiện nay. Những kết quả này gắn liền với thế kỷ XX - thế kỷ đánh dấu những bước
chuyển to lớn của văn hóa Việt Nam.
Xuất phát từ lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Quá trình nhận thức lý luận về văn
hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Văn hóa học.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nửa thế kỷ nghiên cứu văn hóa với nhiều giai đoạn khác nhau đã tạo nên một
khối lượng lớn các công trình nghiên cứu. Cho đến nay, các kết quả này được đề cập
đến chủ yếu thông qua những phương diện sau:
Thứ nhất là các công trình sưu tập, biên soạn tác phẩm, các bài viết về văn hóa
theo những chủ đề nhất định. Có thể kể đến cuốn sách Luận về Quốc học (nghiên cứu
và cảo luận) do Trung tâm Quốc học biên soạn, tập hợp những bài viết từ đầu thế kỷ
cho đến năm 1945 về văn hóa dân tộc. Trên cơ sở nghiên cứu các bài viết đăng trên tạp
chí Nam Phong từ năm 1917 đến năm 1934, tác giả Phạm Thị Ngoạn trong cuốn sách
Tìm hiểu về Nam Phong tạp chí dành một chương Nền văn hóa Quốc gia để tổng luận
những vấn đề liên quan đến văn hóa. Mới đây, nhà xuất bản Lao động đã cho ra cuốn
sách “Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX” gồm 2 tập, tập hợp những bài viết xung quanh
các cuộc tranh luận lớn đầu thế kỷ XX về văn hóa nghệ thuật, trong đó có nhiều bài viết
trực tiếp đề cập đến văn hóa.
Thứ hai là những công trình đề cập đến một xu hướng lý luận văn hóa cụ thể. Đó
là các cuốn sách nghiên cứu về “Đề cương văn hóa Việt Nam” như:
50 năm Đề cương văn hóa Việt Nam - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, 1995
60 năm Đề cương văn hóa với văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay- Đỗ
Thị Minh Thúy - Nxb Văn hóa thông tin, 2003
Thứ ba là các công trình khái quát những thành tựu nghiên cứu văn hóa ở Việt
Nam. Trong “Hành trình vào văn hóa học”, tác giả Bùi Quang Thắng đã tổng quan về
tình hình nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam. Theo tác giả, những thành tựu trong nghiên
cứu văn hóa ở nước ta được thể hiện ở các lĩnh vực sau:
- Lý luận và lịch sử văn hóa
- Các nghiên cứu Dân tộc chí, Dân tộc học, Nhân học
- Các nghiên cứu văn hóa dân gian
- Các nghiên cứu tâm lý học
- Các nghiên cứu xã hội học
Tác giả Nguyễn Chí Bền, trong bài “Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, trước thềm
thế kỷ XXI, mấy suy nghĩ”, đã điểm lại những dấu mốc quan trọng trong quá trình
nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam. Đó là sự ra đời công trình nghiên cứu văn hóa đầu tiên
của Việt Nam theo hướng văn hóa học - Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh,
Văn minh Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên. Theo tác giả, đây là các công trình đặt nền
móng cho việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Tác giả cũng đã đề cập đến sự ra đời của
Đề cương văn hóa Việt Nam như một sự kiện quan trọng mở ra những hướng mới trong
công tác nghiên cứu văn hóa các giai đoạn sau này.
Như vậy, những công trình trên đây hoặc là tập hợp tư liệu, hoặc là có điểm qua
những kết quả nghiên cứu lý luận văn hóa (theo nghĩa rộng) ở nước ta đầu thế kỷ XX
một cách khái quát, sơ lược. Mặc dù đã có nhiều tác giả đưa ra những nhận xét về tình
hình nghiên cứu lý luận văn hoá ở các giai đoạn khác nhau, nhưng đến nay chưa có
công trình nào đi vào tổng kết, hệ thống hoá và đánh giá sự phát triển nhận thức lý luận
văn hoá ở nửa đầu thế kỷ XX. Kế thừa những thành tựu này, luận văn sẽ tiếp tục khảo
sát, phân tích đánh giá về vấn đề trên cùng với mong muốn cung cấp một cái nhìn toàn
cảnh sự phát triển nhận thức này, tạo tiền đề để chúng ta suy nghĩ tiếp về tình hình văn
hoá ở thế kỷ XXI.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa những quan điểm về văn hóa ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX đến năm 1945, luận văn khẳng định sự vận động, phát triển trong nhận
thức về văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ này, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
trong công tác nghiên cứu văn hóa hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về lý luận văn hóa ở Việt Nam trong nửa đầu
thế kỷ XX gắn liền với các xu hướng nghiên cứu lý luận văn hóa.
- Chỉ ra tính quy luật của sự vận động trong nhận thức về văn hóa ở Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX
- Bước đầu rút ra ý nghĩa của những kết quả này đối vớí công tác nghiên cứu lý
luận văn hóa hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tìm hiểu những quan điểm về lý luận văn hóa trong các sách, báo, tạp
chí của các tác giả Việt Nam và trong các công trình dịch thuật ở Việt Nam từ đầu thế
kỷ đến năm 1945. Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của đề tài, luận văn không khảo cứu
các lý thuyết văn hóa trong các công trình dân tộc học, lịch sử văn hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa
duy vật lịch sử và kết hợp phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp thống kê tư liệu và so sánh, phương pháp chuyên gia… để thực hiện
mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.
5. Đóng góp mới về khoa học
Lần đầu tiên, luận văn tập trung hệ thống hóa những quan điểm về văn hóa ở nư-
ớc ta trong nửa đầu thế kỷ XX, trên cơ sở đó khái quát xu hướng vận động của những
quan điểm này, đồng thời rút ra ý nghĩa đối với việc phát triển nghiên cứu lý luận văn
hóa ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chư-
ơng 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở hình thành những nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ
đến năm 1945
1.1. Lý luận văn hóa - bộ môn chính của khoa học nghiên cứu văn hóa
1.1.1. Văn hóa và các khoa học nghiên cứu văn hóa
Trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc, văn hóa là một trong những từ phức tạp nhất,
có nhiều nghĩa nhất. Thuật ngữ “văn hóa” về mặt từ vựng được dịch từ thuật ngữ
“culture” của Anh - Pháp. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh “colere” sau
chuyển thành “cultura” có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau từ "cultura" chuyển từ
nghĩa trồng trọt cây cối sang thành vun trồng tinh thần, trí tuệ. ở Trung Hoa nghĩa gốc
Hán học của từ “văn” là cái đẹp, vẻ đẹp do màu sắc tạo ra, “Văn hóa” là làm cho trở nên
đẹp, trở nên sáng. Cùng với thời gian, số lượng các định nghĩa về văn hóa không ngừng
tăng. Ngay từ năm 1952, C. Kluckholn và A. Kroeber, hai nhà văn hóa học Mỹ đã thống
kê “có 150 định nghĩa khác nhau về văn hóa” [70, tr.10], ngày nay con số đó vượt xa rất
nhiều. Thực tế cho thấy, không thể tìm ra được một định nghĩa duy nhất, tuyệt đối chính
xác, là chuẩn mực chung cho văn hóa, bởi tính phức tạp của nó. Cho nên, các định
nghĩa khác nhau về văn hóa ra đời với tính chất là hệ quả tất yếu của tính phức tạp nói
trên. Khi thấy cần phải giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó, trong một hoàn cảnh nhận
thức mới xuất hiện, các nhà nghiên cứu văn hóa lại đưa ra các quan niệm mới làm cho
các định nghĩa ngày càng nhiều thêm. Nhưng cho dù các định nghĩa đó phong phú thế
nào đi chăng nữa thì tựu trung lại, văn hóa có thể được hiểu ở các khía cạnh sau:
Văn hóa là cái phân biệt giữa con người với động vật, chỉ có văn hóa ở con người
mà không có văn hóa ở động vật. Như vậy, văn hóa là phạm trù chỉ thuộc tính của loài
người.
Văn hóa là dấu hiệu đặc trưng cho xã hội loài người (dấu hiệu để phân biệt xã hội
này với xã hội khác, dân tộc này với dân tộc khác)
Văn hóa là cái không thể kế thừa theo con đường sinh học mà phải do học tập mà
có.
Văn hóa thường gắn với các ý niệm (thế giới tinh thần)
Văn hóa được truyền đạt dưới dạng biểu tượng.
Trong luận văn này, văn hóa được hiểu là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội.
Thuộc về lĩnh vực tinh thần, văn hóa ra đời từ khi con người xuất hiện trên trái
đất này. Tuy nhiên cũng như nhiều hiện tượng khác, mãi đến sau này nó mới trở thành
đối tượng nghiên cứu riêng biệt của khoa học, khi có hàng loạt những tiền đề cho sự ra
đời của các khoa học văn hóa.
Một là, sự biến chuyển sâu sắc của đời sống chính trị - xã hội và tinh thần ở châu
Âu thế kỷ XVIII, XIX gắn liền với việc phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
xác lập và phát triển. Những quan hệ kinh tế tư bản đã quy định những yếu tố cơ bản
của văn hóa thời kỳ này. Hàng loạt các vấn đề văn hóa mới nảy sinh, niềm tin, hệ giá trị,
đạo đức trong xã hội trung cổ tan rã nhanh chóng bởi quá trình công nghiệp hóa và kinh
tế thị trường, làm cho đời sống văn hóa xã hội có những xáo động, bất ổn. Các khoa học
văn hóa ra đời để nghiên cứu những biến chuyển trong lĩnh vực văn hóa nhằm phục vụ
cho sự ổn định xã hội, giữ gìn truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc, tránh sự nghèo nàn
về văn hóa của các dân tộc.
Hai là, với các phát kiến địa lý vĩ đại, châu Âu đã phát hiện ra nhiều vùng đất
mới, “như vừa thức tỉnh từ giấc mơ trung cổ cả một thế giới mới được mở ra chứa đầy
sự đa dạng của các hình thức văn hóa và những đặc biệt của lối sống” [7, tr.10]. Sau đó
là công cuộc chinh phục các nước thuộc địa được mở rộng từ châu á sang châu Phi đã
đem lại kho tư liệu dân tộc học hết sức phong phú. Đồng thời, quá trình đó đã sản sinh
ra nhu cầu nghiên cứu văn hóa của các dân tộc này nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc khai
thác thuộc địa.
Ba là, hàng loạt những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học lịch sử, khảo
cổ, địa lý…ra đời trong giai đoạn này đã tác động mạnh mẽ đến những nhận thức, quan
niệm về văn hóa, là cơ sở cho sự ra đời của nhiều lý thuyết văn hóa nổi tiếng. Tiêu biểu
là học thuyết tiến hóa của Ch. Đácuyn, học thuyết đã xóa đi ranh giới giữa các giống
loài mà coi đó là kết quả sự phát triển liên tục của tự nhiên. Tư tưởng này đã được các
nhà nghiên cứu văn hóa xem xét trong quá trình phát triển của văn hóa và xã hội loài
người. Đó là cội nguồn cho sự ra đời của các lý thuyết tiến hóa luận về văn hóa với các
tên tuổi như L.M.Morgan, E.B.Taylor…
Những điều kiện trên đây đã đưa đến kết quả là sau hàng nghìn năm tồn tại của
văn hóa, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các khoa học về văn hóa mới “phát triển
nở rộ”. Văn hóa trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn như:
khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, nhân học, văn hóa học…Dưới đây là những nét
khái quát của một số ngành khoa học nghiên cứu văn hóa.
Dân tộc học, hiểu theo nghĩa gốc do tiếng ethous - tộc và grapho miêu tả, ghi
chép ghép lại, trở thành một khoa học độc lập ở giữa thế kỷ XIX dựa trên những thành
tựu của tri thức tự nhiên với sự phát triển của học thuyết Tiến hóa do J. B. Lamac, Ch.
Đácuyn sáng lập. Học thuyết này đã đặt cơ sở lý luận cho dân tộc học. Sử dụng các quy
tắc của thuyết Tiến hóa, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu xã hội nguyên thủy
và văn hóa nhân loại, trong số đó phải kể đến vai trò hàng đầu của các nhà sáng lập ra
dân tộc học là L.G Moocgan, I. Bacophen, E. Tylor. EB.Tylor gọi ngành khoa học này
là tộc người học với đối tượng là văn hóa các dân tộc sơ khai. Trong tác phẩm “Văn hóa
nguyên thủy”, ông đã chỉ ra nhiệm vụ của dân tộc học là:
Từ những hiện tượng văn hóa ở những xã hội con người khác nhau “nghiên cứu
những yếu tố chung làm cơ sở cho chúng, là đối tượng thuận tiện để nghiên cứu các quy
luật tư duy và hoạt động của con người” [57, tr.84], trong đó ông đặc biệt chú ý tới sự
so sánh các bộ lạc còn trong trạng thái dã man, lạc hậu với văn hóa của các dân tộc tiên
tiến.
Nghiên cứu văn hóa các dân tộc phải chia nó thành những bộ phận hợp thành và
xếp loại những bộ phận đó nhằm mục đích phân bố chúng về mặt địa lý hay lịch sử và
vạch ra những quan hệ của chúng với nhau.
Nghiên cứu những nguyên nhân đẻ ra các hiện tượng văn hóa và các quy luật chi
phối chúng - trước hết cần phải xây dựng càng có hệ thống càng tốt một sơ đồ phát triển
văn hóa theo những hướng khác nhau. Bằng cách so sánh các giai đoạn văn hóa khác
nhau ở những xã hội nào đó trong lịch sử, đối chiếu chúng với những tài liệu khảo cổ
học nằm trong các di tích văn hóa của những bộ lạc tiền sử.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX xuất hiện các trường phái dân tộc học phê
phán thuyết tiến hóa, chống lại nguyên lý của phương pháp lịch sử trong dân tộc học,
tính quy luật trong sự phát triển của các hiện tượng dân tộc học. Các nhà khoa học thuộc
trường phái này thừa nhận khuếch tán như là yếu tố cơ bản trong sự phát triển văn hóa.
Văn hóa được coi là một tổng thể các hiện tượng không lặp lại, đơn nhất.
Trường phái dân tộc học Xôviết quan niệm dân tộc học là “bộ môn khoa học lịch
sử, chủ yếu dùng phương pháp trực tiếp quan sát để nghiên cứu sinh hoạt và phong tục
tập quán, sự phân bố và quan hệ văn hóa và lịch sử của các dân tộc trên thế giới” [13,
tr.3]. Đối tượng của nó là nghiên cứu nguồn gốc dân tộc, nghiên cứu lịch sử hình thành
các đặc điểm văn hóa và sinh hoạt dân tộc, lịch sử phân bố và di cư các dân tộc.
Ngày nay, dân tộc học đã có những bước phát triển mới, tuy còn tồn tại nhiều
quan niệm khác nhau, nhưng nhiều nhà dân tộc học trên thế giới đã đi đến nhận thức
chung về đối tượng của dân tộc học là “tất cả các dân tộc, dù ở thang bậc phát triển thấp
hay cao, thiểu số hay đa số, đã tồn tại trong quá khứ hay là đang tồn tại hiện nay” [23,
tr.8]. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và với các nội dung nghiên cứu phong
phú và đa dạng nhất được các nhà dân tộc học đặc biệt quan tâm là nghiên cứu các đặc
trưng sinh hoạt - văn hóa truyền thống và hiện đại, vạch ra cho được diện mạo của tộc
người, không phải chỉ có các đặc trưng phân biệt nó, mà cả các đặc điểm chung với các
tộc người khác. Đó là hàng loạt những đặc trưng thuộc lĩnh vực văn hóa: nếp sống cổ
truyền như nhà cửa truyền thống, thành phần thức ăn, tập quán của đời sống gia đình,
hôn nhân và các phong tục, trong các hành vi hàng ngày của các thành viên. Đối với đặc
thù tộc người của các dân tộc hiện đại là sự xuất hiện của những truyền thống mới trong
khuôn khổ của đời sống văn hóa hàng ngày như văn hóa tinh thần nghề nghiệp.
Như vậy, dân tộc học đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu một trong những khía
cạnh cơ bản của toàn bộ lịch sử văn hóa nhân loại, nó đóng vai trò quan trọng trong sự
tái tạo lại lịch sử văn hóa của các giai đoạn phát triển sớm của xã hội. Cho nên có thể
nói rằng, dân tộc học là một bộ môn khoa học về nghiên cứu văn hóa.
Trong nghiên cứu các vấn đề hiện đại, công việc của các nhà dân tộc học có liên
hệ chặt chẽ tới xã hội học, cả hai bộ môn này đều quan tâm đến một số hay nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội. Xã hội học là một môn khoa học nghiên cứu về những con
người trong mối tương quan với những con người khác. Nó đã tiếp nhận từ dân tộc học
nhiều khái niệm như thể chế, các hệ thống xã hội - cơ cấu xã hội, chuẩn mực, giá trị,
biểu tượng… để hoàn thiện bộ khung khái niệm của mình. Ngay từ khi mới ra đời,
những người sáng lập ra nó đã hết sức chú trọng đến văn hóa. A. Comte - cha đẻ của
khoa học này đã nhấn mạnh rằng: quan niệm đời sống xã hội như một quá trình phát
triển tự nhiên và hợp quy luật khách quan nhưng đồng thời cũng là thể thống nhất về
tinh thần và văn hóa. Ông đã xác định nhiệm vụ của xã hội học trước hết phải tập trung
phân tích các quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Một nhà xã hội học nổi tiếng
là Max Weber cũng đã có nhiều công sức để xây dựng môn xã hội học văn hóa. Trong
các tác phẩm của mình, Max Weber đã phân tích một cách sâu sắc sự thâm nhập lẫn
nhau giữa các yếu tố văn hóa và xã hội, qua đó chỉ ra ảnh hưởng to lớn của tư tưởng đến
sự biến đổi và phát triển của xã hội. Max Weber quan niệm rằng xã hội học chính là
khoa học về văn hóa. Đóng góp cho sự ra đời của xã hội học văn hóa còn có người sáng
lập ra chủ nghĩa Mác. Các Mác xem các phương diện tinh thần và văn hóa như tôn giáo,
luật pháp, triết học, nghệ thuật… với tư cách là kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào cơ
sở hạ tầng - những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Đồng thời, kiến
trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối, có vai trò tích cực trong quá trình kinh tế -
xã hội, tác động đến mọi mặt của quá trình đó. Tư tưởng về mối quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của Mác có ý nghĩa phương pháp luận trong nghiên cứu
xã hội học văn hóa, nó giúp cho việc “đặt ra và giải quyết một cách khoa học các vấn đề
văn hóa trong đời sống xã hội” [24, tr.36].
Cho đến hiện nay, các nhà khoa học trên thế giới vẫn còn tranh luận về sự tồn tại
của xã hội học văn hóa, ngành khoa học này vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên con
đường xác lập cho mình một vị trí bình đẳng với các bộ môn khác của xã hội học.
Nhưng có một thực tế là không có một cuốn sách xã hội học nào lại không có những
chương, những mục, những phần bàn về văn hóa. Kể từ khi xã hội học mới ra đời, văn
hóa đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nó. Với nhiệm vụ “xem xét cấu trúc và hoạt
động của văn hóa trong mối liên hệ với các cơ cấu, thiết chế xã hội và được áp dụng đối
với các tình huống lịch sử cụ thể” [48, tr.80], xã hội học văn hóa đã tự khẳng định là
một chuyên ngành của xã hội học. Những kết quả nghiên cứu mà nó đem lại ngày càng
có ý nghĩa và đóng góp quan trọng cho các khoa học xã hội và nhân văn.
Dựa trên những thành tựu của các môn khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học,
xã hội học và tâm lý học so sánh, một bộ môn khoa học về “sự phát triển của con người
dưới hình thức những nền văn hóa của các nhóm dân tộc khác nhau” ra đời, đó chính là