Hoạt động tiếp khách là một hoạt động thường xuyên diễn ra trong mỗi gia đình, mỗi cơ
quan công sở. Hoạt động này đã được hình thành từ rất lâu đời, từ khi con người có sự
giao tiếp, đi lại, quan hệ với nhau. Tuy không tạo ra của cải vật chất nhưng hoạt động này
lại giúp cho các mối quan hệ trở nên thân mật, gần gũi hơn, thúc đẩy sự thành công trong
hợp tác, làm ăn, buôn bán....Vì vậy mà mỗi gia đình, mỗi cơ quan công sở luôn luôn dành
ra một không gian sang trọng lịch sự nhất của mình làm không gian tiếp khách. Sự sang
trọng lịch sự của mỗi không gian tiếp khách cũng ngày càng hoàn thiện hơn cùng với sự
phát triển của tư duy, sáng tạo và óc thẩm mỹ của con người, nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả tiếp khách.
Trường Đại học Lâm nghiệp là một trong những trường Đại học đầu ngành của cả
nước, chuyên nghiên cứu về lĩnh vực Lâm nghiệp. Với sự phát triển ngày càng lớn về quy
mô và chất lượng đào tạo của Nhà trường, hiện nay trường đã và đang mở rộng các mối
quan hệ giao, lưu hợp tác với các trường, các tổ chức trong nước và quốc tế. Hàng năm có
hàng trăm đoàn khách trong nước và quốc tế tới thăm và làm việc tại trường, điều đó đòi
hỏi Nhà trường phải có một không gian tiếp khách thật sang trọng, lịch sự, ấn tượng để các
hoạt động tiếp khách diễn ra tốt đẹp nhất, mở rộng các mối quan hệ của Nhà trường.
Trước những điều kiện thực tiễn đó, được sự đồng ý của trường Đại học Lâm
nghiệp, cùng sự cho phép của khoa Chế biến lâm sản tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
"Thiết kế phòng khách quốc tế trường đại học Lâm nghiệp". Đây là một đề tài hoàn toàn
mới, được áp dụng cho một đối tượng cụ thể đó là trường Đại học Lâm nghiệp.
51 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1845 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thiết kế phòng khách quốc tế trường đại học Lâm nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thiết kế phòng khách quốc tế trường
đại học Lâm nghiệp
Hoạt động tiếp khách là một hoạt động thường xuyên diễn ra trong mỗi gia đình, mỗi cơ
quan công sở. Hoạt động này đã được hình thành từ rất lâu đời, từ khi con người có sự
giao tiếp, đi lại, quan hệ với nhau. Tuy không tạo ra của cải vật chất nhưng hoạt động này
lại giúp cho các mối quan hệ trở nên thân mật, gần gũi hơn, thúc đẩy sự thành công trong
hợp tác, làm ăn, buôn bán....Vì vậy mà mỗi gia đình, mỗi cơ quan công sở luôn luôn dành
ra một không gian sang trọng lịch sự nhất của mình làm không gian tiếp khách. Sự sang
trọng lịch sự của mỗi không gian tiếp khách cũng ngày càng hoàn thiện hơn cùng với sự
phát triển của tư duy, sáng tạo và óc thẩm mỹ của con người, nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả tiếp khách.
Trường Đại học Lâm nghiệp là một trong những trường Đại học đầu ngành của cả
nước, chuyên nghiên cứu về lĩnh vực Lâm nghiệp. Với sự phát triển ngày càng lớn về quy
mô và chất lượng đào tạo của Nhà trường, hiện nay trường đã và đang mở rộng các mối
quan hệ giao, lưu hợp tác với các trường, các tổ chức trong nước và quốc tế. Hàng năm có
hàng trăm đoàn khách trong nước và quốc tế tới thăm và làm việc tại trường, điều đó đòi
hỏi Nhà trường phải có một không gian tiếp khách thật sang trọng, lịch sự, ấn tượng để các
hoạt động tiếp khách diễn ra tốt đẹp nhất, mở rộng các mối quan hệ của Nhà trường.
Trước những điều kiện thực tiễn đó, được sự đồng ý của trường Đại học Lâm
nghiệp, cùng sự cho phép của khoa Chế biến lâm sản tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
"Thiết kế phòng khách quốc tế trường đại học Lâm nghiệp". Đây là một đề tài hoàn toàn
mới, được áp dụng cho một đối tượng cụ thể đó là trường Đại học Lâm nghiệp.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Trên cơ sở tìm hiểu về đặc điểm, yêu cầu cơ bản của phòng khách công sở, kết
hợp với việc tìm hiểu thực trạng hoạt động ngoại giao, tiếp khách của Nhà trường để chọn
ra các trang thiết bị và vật liệu nội thất cho phù hợp với một phòng khách quốc tế.
- Đưa ra được phương án bố trí các yếu tố nội thất của phòng khách. Phương án bố
trí này dựa trên cơ sở nghiên cứu về các hoạt động tiếp khách của Trường, đảm bảo các
yêu cầu về công năng cũng như tính thẩm mỹ cao, đồng thời cũng phải phù hợp với những
điều kiện vật chất hiện tại.
- Đưa ra được thiết kế sơ bộ một số đồ đạc chính (sản phẩm mộc) của phòng khách
quốc tế trường §¹i häc L©m nghiÖp.
1.2 Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu về các đặc điểm và các yêu cầu cơ bản đối với phòng khách nơi công sở,
phòng khách quốc tế.
- Tìm hiểu về trang thiết bị và vật liệu nội thất phục vụ cho phòng khách nơi công
sở.
- Thiết kế phòng khách quốc tế trường Đại học Lâm nghiệp trên cơ sở nghiên cứu
về điều kiện thực tiễn của nhà trường.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
- Các vấn đề tìm hiểu chỉ dừng lại ở những yếu tố chung, cơ bản nhất chứ không đi
sâu vào tìm hiểu cho từng loại phòng khách công sở cụ thể.
- Các trang thiết bị phục vụ cho phòng khách quốc tế trường Đại học Lâm nghiệp
được lựa chọn cho phù hợp với ý đồ thiết kế.
- Thiết kế sơ bộ một số sản phẩm nội thất.
- Đề tài chỉ dừng lại ở công đoạn thiết kế chứ không đi vào thi công cụ thể.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp kế thừa được thực hiện trong việc tổng hợp các tư liệu nghiên cứu về
các nguyên tắc thiết kế phòng khách nơi công sở.
-Việc nghiên cứu về bản chất, quy luật các hoạt động tiếp khách và tìm hiểu tình
hình tiếp khách của trường Đại học Lâm nghiệp để xây dựng ý đồ thiết kế được thực hiện
bằng phương pháp khảo sát thực tế và tư duy logic.
CHƯƠNG II
CƠ SỞ THIẾT KẾ
2.1. Lịch sử của vấn đề nghiên cứu
Có thể nói rằng hoạt động tiếp khách là một loại hình hoạt động hết sức quan trọng,
nó đã xuất hiện từ khi con người có mối quan hệ qua lại với nhau và ngày càng phát triển
cùng với sự phát triển của xã hội. Hoạt động này tuy không trực tiếp tạo ra được của cải
vật chất nhưng nó lại có tác động đến sự thành công của các mối quan hệ làm ăn buôn bán,
giao lưu, hợp tác,... Vì vậy mà các hoạt động tiếp khách rất được quan tâm ở mọi nơi trên
Thế Giới. Các nhà khoa học, các kiến trúc sư đã phải bỏ ra nhiều công sức để nghiên cứu
tâm sinh lý, hoạt động của con người khi tham gia các hoạt động tiếp khách, các yếu tố tác
động đến tâm sinh lý của con người, từ đó đưa ra các phương án thiết kế không gian nội
thất của phòng khách cho phù hợp với từng hoàn cảnh, từng điều kiện cụ thể.
Qua các nghiên cứu và phân tích người ta đã chia phòng khách làm hai dạng chính
đó là: phòng khách gia đình và phòng khách nơi công sở. Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại
phòng khách này đó là số lượng khách: đối với phòng khách gia đình thường số lượng
khách rất ít chỉ một vài người, còn đối với phòng khách nơi công sở thì khách thường đến
theo đoàn vì vậy lượng khách sẽ đông hơn, từ đó dẫn đến việc bố trí nội thất và không gian
phòng khách cũng khác nhau.
Ở Việt Nam hiện nay phòng khách cũng được phân làm hai loại đó là phòng khách
gia đình và phòng khách công sở. Vấn đề nội thất phòng khách công sở hiện nay đang
được quan tâm rất nhiều. Ở một số trường ĐH như: ĐH Kiến Trúc, ĐH Xây Dựng, ĐH
Mỹ Thuật Công Nghiệp,... và một số công ty thiết kế nội thất hiện nay đã có nhiều đề tài
nghiên cứu về phòng khách công sở. Tuy nhiên, các đề tài này chỉ là thiết kế cho một cơ quan
cụ thể nào đó.
Đề tài "Thiết kế phòng khách quốc tế trường ĐHLN" là một đề tài hoàn toàn mới
vì nghiên cứu này được thực hiện trong một điều kiện cụ thể, ứng dụng cho một đối tượng
cụ thể đó là trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
2.2 Cơ sở lý thuyết
2.2.1. Các nguyên lý thiết kế mỹ thuật
Thiết kế nội thất bên trong liên quan đến việc lựa chọn các thành phần thiết kế và sự
bố trí các thành phần đó giữa không gian để thoả mãn các yêu cầu về công năng và tính
thẩm mỹ. Để đảm bảo các yêu cầu này thì quá trình thiết kế cần phải tuân theo các nguyên
tắc thiết kế đó là:
* Tỷ lệ
Tỷ lệ cho biết mối quan hệ giữa phần này với phần khác trong cùng một vật hay
giữa vật này với vật khác trong cùng một không gian cụ thể. Mối quan hệ này có thể là về
số lượng, về kích cỡ hay mức độ,...khi lựa chọn hay bố trí các sản phẩm nội thất phải bố trí
tỷ lệ giữa các vật vì kích thước của một vật sẽ bị ảnh hưởng bởi kích thước tương đối của
vật khác đặt trong môi trường của nó. Các phần của một thành phần thiết kế, giữa một vài
thành phần, hình thức và sự khép kín không gian, như vậy sẽ làm cho không gian nội thất
trở nên cân đối, hợp lý nâng cao giá trị thẩm mỹ cho căn phòng,...
* Tỷ xích
Nguyên lý thiết kế của tỷ xích là sự liên quan tỷ lệ giữa các bộ phận cho cân đối. Tỷ
xích cũng như tỷ lệ đều có quan hệ với kích thước của mọi vật.
Tỷ xích thị giác nói tới độ lớn của vật nào đó xuất hiện khi có sự so sánh với các vật
khác xung quanh nó. Như vậy, tỷ xích của một vật thường là những nhận xét chúng ta đưa
ra dựa vào sự liện hệ hay dựa vào kích thước của một vật nào khác gần đó hoặc những yếu
tố xung quanh. Tỷ xích không chỉ xuất hiện giữa các đồ vật mà còn xuất hiện trong mối
quan hệ giữa người và đồ vật.
Sự xác định tỷ xích của một không gian nội thất không bị hạn chế bởi các mối quan
hệ của ai cả. Các thiết bị nội thất có thể liên quan đồng thời tới toàn bộ không gian và tới
các thiết bị khác tới những người sử dụng không gian phòng đó. Một vật có thể có tỷ xích
bình thường với vật này nhưng lại có tỷ xích khác thường nếu đem so sánh với các vật
khác. Những yếu tố tỷ xích có thể thu hút sự chú ý, tạo nên điểm nhấn cho căn phòng.
* Sự cân bằng
Không gian nội thất và các yếu tố quanh nó như: đồ đặc, đèn sáng và
các yếu tố trang trí khác thường một tổng thể hình thể, kích thước, màu sắc và chất liệu.
Những yếu tố này được nhận biết như thế nào là do sự đáp ứng, sự
thích dụng của đồ đạc để đạt được nhu cầu thẩm mỹ. Lúc này những yếu tố sẽ thu xếp để
đạt được sự cân bằng thị giác, một sự cân bằng giữa thị giác được tạo bởi các thành phần,
giữa thành phần trong tổng thể không gian nội thất đều có những nét đặc trưng riêng về
hình khối về kích thước, màu sắc, chất liệu.
Có hai kiểu cân bằng cơ bản có thể sử dụng trong phòng khách quốc tế Đại học
Lâm nghiệp đó là:
- Cân bằng đối xứng trục: Đây là kết quả sự sắp xếp các yếu tố chuẩn, sự tương ứng
trong hình dáng, kích thước và vị trí liên quan đến một đường hay trục gọi là trục đối
xứng.
- Cân bằng đối xứng xuyên tâm: Đây là kết quả của việc tổ chức các yếu tố xung
quanh điểm trung tâm. Nó tạo ra một bố cục tập trung và nhấn mạnh điểm giữa như một
điểm trọng tâm của căn phòng.
Đây là hai phương pháp có sức thuyết phục để thiết lập quy tắc thi giác, tạo nên sự
đồng nhất cho căn phòng và đơn giản hoá trong việc tổ chức bố cục của phòng.
* Sự hài hoà
Sự hài hoà có thể được hiểu là sự phù hợp hay hài lòng về các thành phần trong một
bố cục. Nguyên tắc hài hoà đòi hỏi sự chọn lọc kỹ lưỡng các yếu tố, chia những nét riêng
hay những đặc tính chung như hình dáng, màu sắc, chất liệu hay vật liệu. Nó lặp lại ở một
điểm chung đó là tạo ra một sự thống nhất và hài hoà thị giác giữa các yếu tố trong nội
thất.
Sự hài hoà khi sử dụng quá nhiều yếu tố có đặc điểm giống nhau có thể dẫn đến bố
cục không linh hoạt. Sự đa dạng trong trường hợp khác khi lạm dụng nó để làm cơ sở cho
sự phong phú có thể dẫn đến sự hỗn loạn thị giác. Một sự đa dạng làm sinh động và tạo sự
thú vị của khung cảnh nội thất.
* Nhịp điệu
Nguyên lý thiết kế nhịp điệu là dựa vào sự lặp đi lặp lại của các yếu tố trong không
gian. Sự lặp l¹i này không chỉ tạo nên sự thống nhất thị giác mà còn tạo nên sự chuyển
động mang tính nhịp điệu mà mắt và tâm trí người quan sát có thể theo hướng nào đó bên
trong một bố cục hoặc xung quanh không gian.
Hình thái đơn giản nhất là sự nhắc lại các không gian đều đặn của các yếu tố giống
nhau theo một đường kẻ. Khi những kiểu mẫu này trở nên quá
đơn điệu nó có thể dùng để thiết lập một nhịp điệu cho những phần chính hoặc để xác định
một tuyến chất cho đường viền hay để trang trí.
Các hình mẫu phức tạp có nhịp điệu được thực hiện bằng cách tạo mối quan hệ thị
giác cho các yếu tố, tức là liên kết các vật liền kề nhau hoặc phân chia các điểm cơ bản
giữa chúng.
Không gian của các yÕu tố liên tục của nhịp độ của nhịp điệu thị giác có thể thay
đổi, tạo thành và nhấn mạnh những điểm cần thiết trong khối. Hiệu quả về nhịp điệu có thể
làm duyên dáng, truyền cảm, dứt khoát và đột ngột. Mỗi chuỗi hình mẫu có nhịp điệu,
nhưng khi sự đột biến của một yếu tố độc đáo có thể làm tăng tính tự nhiên của hình mẫu.
Trong khi những yếu tố lặp lại để có tính liên tục, phải có một đặc điểm thông
thường, chúng ta có thể thay đổi hình thù, chi tiết, màu sắc, chất liệu. Những sự khác biệt
có thể tạo thành sự phong phú thị giác và có thể dẫn tới những mức độ đa dạng khác nhau.
Một nhịp điệu xen kẽ có thể đặt nằm ngang, hoặc những biến tấu có thể được sắp xếp tăng
lên về kích cỡ, giá trị, màu sắc để định hướng cho chuỗi.
Nhịp điệu thị giác rễ ràng nhận ra nhất khi tạo thành một mẫu theo đường, trong
một không gian nội thất chuỗi không theo tính chất tuyến gần những hình thù, màu sắc và
chất liệu có thể cung cấp những nhịp điệu tinh tế hơn mà mắt thường không thể nhận thấy
ngay.
* Sự nhấn mạnh
Nguyên lý nổi bật của sự nhấn mạnh luôn tồn tại cùng với điểm nhấn và phụ thuộc
vào các yếu tố trong việc sắp đặt của người thiết kế néi thất. Một không gian nội thất
không có điểm nhấn sẽ gây sự buồn tẻ, tuy nhiên nếu nhiều điểm nhấn quá sẽ gây sự hỗn
loạn, nhàm chán, giảm giá trị từ cái có giá trị.
Một yếu tố đặc biệt nổi bật có thể cho ta cái nổi bật đó bởi kích thước, màu sắc, kết
cấu ... nó tuỳ vào không gian cụ thể. Một yếu tố hay nét đặc biệt có thể nổi bật bởi vị trí
đặc biệt và hướng của nó trong không gian.
Để làm tăng sự nổi bật một yếu tố có thể đặt hướng tương phản với các bình diện
bình thường trong không gian và các yếu tố khác trong nó, nó có thể được chiếu sáng đặc
biệt, những đường phụ, yếu tố phụ có thể sắp xếp hướng tới điểm chú ý, điểm đặc biệt mà
ta cần nhấn mạnh.
2.2.2. Ánh sáng nội thất
Ánh sáng nội thất là yếu tố đầu tiên đánh thức không gian nội thất, không có ánh
sáng thì sẽ không có hình thể, màu sắc, vật liệu hay khoanh
vùng không gian nội thất. Chức năng thiết kế chiếu sáng là để chiếu ánh sáng nhân tạo hay
tự nhiên vào không gian của một môi trường nội thất và cho phép những người sử dụng
thực hiện các hoạt động với nhịp độ thích hợp, chính xác, thoải mái, ngoài ra nó còn có tác
dụng trang trí làm tăng thêm giá trị thẩm mỹ của căn phòng.
Bố trí ánh sáng và hình thức chiếu sáng được kết hợp với đặc điểm không gian kiến
trúc và việc sử dụng. Từ chỗ mắt của chúng ta nhìn phải được chiếu sáng tốt nhất và độ
sáng phải được pha chộn mạnh nhất trong phạm vi hoạt động. Việc kết hợp này đặc biệt
quan trọng trong việc quy hoạch từng nguồn sáng theo khu vực hoặc chiếu sáng theo
nhiệm vụ của từng nơi.
Một nguồn sáng có thể là một hình thức, một tuyến, một mặt phẳng hay một khối và
với mỗi nguốn sáng lại có ba phương pháp chiếu sáng khác nhau đó là: Chiếu sáng tổng
thể, chiếu sáng tập trung và chiếu sáng cục bộ. Việc lựa chọn loại nguồn sáng và phương
pháp chiếu sáng không chỉ dựa theo nhu cầu cụ thể mà còn dựa theo không gian tự nhiên
và hoạt động của người sử dụng. Thiết kế chiếu sáng không chỉ đưa ra được lượng ánh
sáng theo yêu cầu mà còn phải đảm bảo được chất lượng chiếu sáng.
* Một số đặc điểm của ánh sáng
- Độ chiếu sáng
Độ chiếu sáng mà chỉ tiêu số liệu thiết kế chiếu sáng là thông lượng ánh sáng trên
một đơn vị diện tích:
dA
d
E
: Thông lượng ánh sáng (lm).
A: Diện tích (m2).
E: Độ chiếu (lx).
- Độ sáng
Là trình độ ngời sáng (sáng tỏ) của bản thân vật thể, đơn vị là cd/m2. Để giảm mệt
mỏi của mắt, độ sáng của các bộ phận và tỷ lệ phản xạ của môi trường tác nghiệp yêu cầu
phân bố hợp lý nhất định.
- Tỷ lệ độ sáng
Giữa mục tiêu thị giác và bối cảnh ( phía sau lưng) phải thiết kế độ so sánh độ sáng
(tỷ lệ độ sáng) hợp lý, độ so sánh dùng hệ số k biểu thị. k = (L0-
Lb)/Lb
L0: Độ sáng mục tiêu thị giác.
Lb: Độ sáng bối cảnh.
Hệ số độ sáng nhỏ nhất có thể nhận biết vật thể gọi là độ nhận biết nhỏ nhất, 1/kmin
gọi là độ nhạy sáng, tức là độ nhạy nhìn rõ vật thể.
- Quan hệ giữa độ chiếu sáng và độ sáng
Độ sáng của (vật thể) gia cụ, tường....liên quan đến tỷ lệ phản quang bề mặt và độ
chiếu bề mặt. Quan hệ của nó như sau:
B = 0,32.R.E
B: Độ sáng của vật thể.
R: Hệ số phản xạ bề mặt vật thể.
E: Độ chiếu toàn bộ vật thể.
2.2.3 Mầu sắc
Mọi hình ảnh thường ngày mà mắt chúng ta thâu nhận được đều có mầu sắc. Mầu
s¾c giúp chóng ta nhanh chóng phân biệt giữa đồ vật này với đồ vật khác không chỉ qua
khối dáng và đặc tính. Mầu sắc cßn giúp thể hiện tính cách, sự sang trọng của chủ nhân sở
hữu vật có mầu sắc đó. Trong văn học các nhà văn mưîn mầu sắc để xây dựng nên cá tính
nhân vật của mình. Trong giao thông, mầu sắc được áp dụng cho các tín hiệu của đèn luật
lệ giúp cho mọi người dễ dàng nhận biết và chấp hành nghiêm chỉnh. Trong kiÕn tróc néi
thÊt mầu s¾c th-êng ®-îc sö dông ®Ó t¹o ra c¸c c¶m gi¸c tÝch cùc trong c¸c phương án
thiết kế cô thÓ, ®Ó che lÊp ®i nh÷ng khuyÕt tËt kh«ng ®¸ng thÊy t¹o nªn vÎ ®Ñp hoµn
thiÖn h¬n cho bản thiết kế.
Mầu sắc sử dụng trong thiết kế kiến trúc và nội thất thường sử dụng hệ thống biểu
thị mầu của Munsell.
Hệ thống biểu thị mầu của Munsell lấy trục không gian ba chiều để biểu thị ba
thuộc tính của mầu sắc là: Sắc tương (hue), độ sắc (chroma), độ sáng (value).
Hình 1. Bảng hệ thống mầu của Munsell
- Sắc tương
Lập thể mầu munsell chia sắc tương ra làm 100 loại, trong đó 10 loại mầu cơ bản
như sau: Hồng (R), vàng (Y), lục (G), lam (B), tím (P), da cam (RT), vàng lục (GY), lam
lục (GB), lam da cam (PB), tím hồng (RP).
Sau đó hai loại mầu sắc cơ bản lại được chia làm 10 cấp cấu thành vòng sắc tương
hệ biểu thị mầu Munsell.
- Độ sáng
Hệ thống biểu thị mầu Munsell quy định từ 0-10 có 11 cấp độ sáng, lấy đáy của trục
thẳng đứng là mầu đen lý tưởng 0, đỉnh là mầu trắng lý tưởng 10, ở giữa là mầu xám 1-9 ,
trục này là trục không sắc mầu .
- Độ mầu
Độ mầu của hệ thống biểu thị màu Munsell lấy mức độ tách khỏi trục không sắc
mầu để đánh giá. Độ mầu trên trục không sắc mầu là cấp 0, cách trục càng xa độ mầu càng
lớn, sắc tương khác nhau thì độ mầu lớn nhất ở độ sáng khác nhau cũng khác nhau, trong
tất cả các độ mầu tỷ số lớn nhất là 14 cấp.
- Sắc mầu và hiệu ứng tri giác
Mầu sắc kích thích người có thể gây nên hiệu ứng tâm lý tri giác cña người. Loại
hiệu ứng này có tính phổ biến nhưng thay đổi theo thời gian, địa điểm và các điều kiện
khác nhau. Hiệu ứng tâm lý của sắc mầu có 6 loại chủ yếu.
+Cảm giác nhiệt độ
Khi con người ở trong môi trường có mầu sắc khac nhau sẽ có cảm giác nhiệt độ
khác nhau: Màu hồng, mầu da cam đem lại cảm giác ấm áp, chúng thuộc sắc mầu ấm. Mầu
lam và lam lục đưa lại cảm giác lạnh lẽo, chúng thuộc hệ mầu sắc lạnh. Tuy nhiên đây chỉ
là tương đối vì khi ghép một mầu ở cạnh hai mầu khác nhau thì sẽ cho cảm giác khác
nhau. Khi thiết kế nội thất có thể lợi dụng cảm giác nhiệt độ của sắc mầu để điều tiết
không khí môi trường nội thất.
+Cảm giác khoảng cách
Khoảng cách thực tế như nhau nhưng nếu mầu sắc khác nhau sẽ tạo ra
cảm giác khoảng cách khac nhau. Sắc tương và độ sáng ảnh hưởng đến khoảng cách. Bình
thường, hệ mầu sắc ấm áp, độ sáng cao tạo nên cảm giác đột xuất (cận cảm) gọi là mầu đột
xuất hay mầu cận cảm, mầu sắc hệ mầu lạnh tạo cảm giác lùi( cảm giác xa). Loại hiệu ứng
tâm lý mầu sắc này có thể dùng để điều tiết kích thước không gian nội thất.
Vàng, da cam, đỏ, lục , tím, lam
Xa dần
+ Cảm giác trọng lượng
Mầu sắc có cảm giác nặng nhẹ, độ sáng có ảnh hưởng rất lớn đến cảm giác nặng
nhẹ. Độ sáng càng lớn cảm giác càng nhẹ, mầu sắc lạnh, độ mầu yếu cảm giác nhẹ. Trong
thiết kế nội thất, thiết bị trên đỉnh ( trần ) nên dùng mầu sắc có cảm giác nhẹ, phần đáy nên
thể hiện nặng so với đỉnh, như vậy sẽ tạo ra cảm giác ổn định, an toàn cho người.
Đen lam hồng da cam lục vàng trắng
Nhẹ dần
+ Cảm giác nổi bật
Mầu sắc khác nhau gây sự chú ý của người khác nhau. Sắc tương ảnh hưởng lớn
nhất đến cảm giác nổi bật. Thứ tự của cảm giác nổi bật là:
Hồng > lam > vàng > lục > trắng. Tính cảm giác nổi bật của mầu vật thể là :Mầu hồng >
mầu da cam. Tính nổi bật của sắc mầu kiến trúc còn chịu ảnh hưởng của mối quan hệ của
sắc mầu bối cảnh. Trong bối cảnh màu đen hoặc mầu xám thì cảm giác nổi bật là: Mầu
vàng > da cam > hồng > lục > lam. Còn ở bối cảnh mầu xám là: Lam > lục > hồng > da
cam > vàng.
+Cảm giác to nhỏ
Mầu sắc của vật thể khác nhau tạo cho người cảm giác to nhỏ khác nhau. Bình
thường, vật thể có độ sáng cao và độ mầu lớn cảm giác lớn, thứ tự là : Trắng > hồng >
vàng > xám > lục > xanh > tím > đen.
+ Cảm giác tính cách
Mầu sắc có tác dụng làm cho con người hưng phấn và trấn tĩnh. Sắc tương gây tác
dụng chủ yếu, bình thường mầu hồng, mầu da cam, vàng, tím hồng là mầu hưng phấn ; còn
mầu lam, lam lục, tím lam, là mầu trầm tĩnh; mầu vàng lục, mầu lục, tím là mầu trung tính.
2.3. Cơ sở thực tiễn
2.3.1. Đôi nét về trường Đại học Lâm nghiệp
Hình 1: Nhà hiệu bộ trường Đại học Lâm nghiệp
Trường ĐHLN được thành lập từ năm 1964 tại Đông Chiều - Quảng Ninh, cho tới
năm 1984 Trường chuyển về Xuân Mai - Chương Mỹ - Hà Tây. Qua nhiều giai đoạn phát
triển, trước đây trường chỉ có hai khoa chủ yếu đào tạo về hai lĩnh vực trong ngành Lâm
nghiệp đó là Lâm Sinh và Chế biến lâm sản. Cho tới nay trường đã có nhiều ngành nghề
đào tạo khác nhau với 7 khoa và 3 trung tâm nghiên cứu với quy mô lớn đó là : khoa Lâm
học, khoa Quản lý bảo vệ, kho