NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với hoạt
động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch
vụ thanh toán. Mục tiêu hoạt động của NHTM khác hẳn mục tiêu của NHTƯ là kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ để tìm kiếm và tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi khuôn khổ
pháp luật, đây là mục tiêu cơ bản xuyên suốt quá trình hoạt động của NHTM.
ở nước ta, tổ chức tín dụng đầu tiên là Nhà tín dụng, được thành lập năm 1951. Đây
là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Từ đó đến nay hệ thống các NHTM đã
không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế đất
nước. Hiện nay Việt Nam có nhiều loại hình NHTM với các hình thức sở hữu, tính chất
pháp lý khác nhau (NHTM Quốc doanh hay còn gọi là NHTM nhà nước; NHTM cổ phần;
chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài).
Trong đó, hệ thống NHTM Quốc doanh gồm: NH Công Thương Việt Nam, NH Ngoại
thương Việt Nam, NH Đầu tư và phát triển Việt Nam, NH Nông Nghiệp và phát triển
Nông thôn, NH Phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long. NHTM Quốc doanh được tổ
chức theo một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương. Dưới các NHTM QD là
các sở giao dịch, dưới sở giao dịch là các chi nhánh và tiếp theo là phòng giao dịch. Ngoài
mạng lưới trong nước và các ngân hàng này còn mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, thiết
lập quan hệ đại lý với nhiều ngân hàng trên khắp các châu lục .
Ngày nay hoạt động của NHTM rất đa dạng không chỉ là cho vay và làm trung gian
thanh toán nó còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh doanh mới : Tư vấn đầu tư chứng khoán,
bảo lãnh, đại lý, quản lý danh mục đầu tư... Đặc biệt trong Thương mại Quốc tế NHTM
còn có khả năng thanh toán, NHTM cung cấp các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế,
tiết kiệm chi phí cho các chủ thể tham gia thanh toán và nâng cao khả năng tín dụng. Việc
mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán làm cho NHTM trở thành
một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. Thay cho việc thanh toán trực tiếp các doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức có thể nhờ NHTM thực hiện những việc này trên cơ sở những
phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng tiên tiến và thủ tục ngày một
đơn giản. Những dịch vụ thanh toán của NHTM ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại
sự thuận tiện, mau chóng, an toàn tiết kiệm chi phí hơn cho những chủ thể trong nền kinh
tế.
76 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ tại NH Nông
nghiệp và phát triển nông thôn đông hà nội
Chương I
Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ
I. Hoạt động TTQT của Ngân hàng thương mại và vai trò của TTQT.
1.1. khái quát về NHTM.
NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với hoạt
động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch
vụ thanh toán. Mục tiêu hoạt động của NHTM khác hẳn mục tiêu của NHTƯ là kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ để tìm kiếm và tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi khuôn khổ
pháp luật, đây là mục tiêu cơ bản xuyên suốt quá trình hoạt động của NHTM.
ở nước ta, tổ chức tín dụng đầu tiên là Nhà tín dụng, được thành lập năm 1951. Đây
là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Từ đó đến nay hệ thống các NHTM đã
không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế đất
nước. Hiện nay Việt Nam có nhiều loại hình NHTM với các hình thức sở hữu, tính chất
pháp lý khác nhau (NHTM Quốc doanh hay còn gọi là NHTM nhà nước; NHTM cổ phần;
chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài).
Trong đó, hệ thống NHTM Quốc doanh gồm: NH Công Thương Việt Nam, NH Ngoại
thương Việt Nam, NH Đầu tư và phát triển Việt Nam, NH Nông Nghiệp và phát triển
Nông thôn, NH Phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long. NHTM Quốc doanh được tổ
chức theo một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương. Dưới các NHTM QD là
các sở giao dịch, dưới sở giao dịch là các chi nhánh và tiếp theo là phòng giao dịch. Ngoài
mạng lưới trong nước và các ngân hàng này còn mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, thiết
lập quan hệ đại lý với nhiều ngân hàng trên khắp các châu lục .
Ngày nay hoạt động của NHTM rất đa dạng không chỉ là cho vay và làm trung gian
thanh toán nó còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh doanh mới : Tư vấn đầu tư chứng khoán,
bảo lãnh, đại lý, quản lý danh mục đầu tư... Đặc biệt trong Thương mại Quốc tế NHTM
còn có khả năng thanh toán, NHTM cung cấp các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế,
tiết kiệm chi phí cho các chủ thể tham gia thanh toán và nâng cao khả năng tín dụng. Việc
mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán làm cho NHTM trở thành
một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. Thay cho việc thanh toán trực tiếp các doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức có thể nhờ NHTM thực hiện những việc này trên cơ sở những
phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng tiên tiến và thủ tục ngày một
đơn giản. Những dịch vụ thanh toán của NHTM ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại
sự thuận tiện, mau chóng, an toàn tiết kiệm chi phí hơn cho những chủ thể trong nền kinh
tế.
1.2. hoạt động TTQT của NHTM.
1.2.1. TTQT và sự hình thành phát triển của hoạt động TTQTtại NHTM.
TTQT là việc thanh toán giữa các nước với nhau về những khoản tiền nợ phát sinh từ
các quan hệ giao dịch về kinh tế, chính trị, văn hóa... Chủ thể trong TTQT có thể là thể
nhân hoặc chính phủ của các nước.
TTQT đã hình thành từ rất lâu cùng với quá trình hình thành và phát triển hoạt động
xuất nhập khẩu quốc tế. Hình thức thanh toán xuất nhập khẩu sơ đẳng nhất là hàng đổi
hàng. Sự xuất hiện của tiền tệ làm cho việc mua bán trao đổi được diễn ra thuận tiện hơn.
Nhưng các quốc gia khác nhau lại sử dụng các đồng tiền khác nhau, chính vì vậy mà ngân
hàng xuất hiện làm trung gian chuyển hóa loại tiền này sang loại tiền khác, đại diện cho
bên mua thanh toán cho bên bán.
Khi kỹ thuật nghiệp vụ và mạng lưới hoạt động phát triển hơn, ngân hàng có thể đại
diện cho bên bán yêu cầu bên mua trả tiền trị giá món hàng đã mua. Đến đây vai trò của
ngân hàng còn giới hạn ở mức làm dịch vụ giúp hai đối tác và không can thiệp vào quyết
định mua bán thanh toán của họ, hai bên mua bán vẫn phải hiểu rõ và tín nhiệm lẫn nhau.
Ngoại thương phát triển tạo ra khả năng để các đối tác dù chưa hiểu nhau vẫn có thể
mua bán với nhau để tạo thị trường và tăng lợi nhuận, cho dù họ cách xa nhau về mặt địa
lý, hàng rào ngôn ngữ, phong tục tập quán, chưa hiểu rõ nhau để có thể làm ăn song phẳng
với nhau. Ngân hàng cung cấp thêm dịch vụ mới: dịch vụ cho mượn uy tín, giúp các đối
tác kinh doanh xuất nhập khẩu thanh toán mau chóng, thuận lợi và an toàn.
1.2.2. Vai trò của thanh toán Quốc tế
Tất cả các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động khác trong
nền kinh tế đều được kết thúc bằng khâu thanh toán. Thanh toán quốc tế không chỉ đem lại
lợi ích cho những bên tham gia mua bán hàng hóa dịch vụ, nó còn đem lại lợi nhuận cho
các ngân hàng cũng như đem lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế.
vai trò của TTQT đối với doanh nghiệp XNK
Phần lớn các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đều không thể tự thực hiện TTQT do
có khó khăn về mặt địa lý, phong tục tập quán và rất nhiều khó khăn khác nữa dẫn đến nhu
cầu thanh toán hộ được thực hiện bởi các ngân hàng. Ngân hàng với sức mạnh về năng lực,
uy tín của mình có thể giúp các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi
ro trong thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Ngoài ra, cũng nhờ thanh toán qua ngân hàng
mà các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu có thể tận dụng được các hình thức tín dụng hoặc tài
trợ xuất nhập khẩu đi kèm hoạt động thanh toán để hỗ trợ về tài chính cho hoạt động buôn
bán, kinh doanh đó của mình.
vai trò của TTQT đối với NHTM
- Khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán ngân hàng sẽ có khả năng tăng doanh
thu và lợi nhuận thu từ phí các dịch vụ phát sinh như:
+ Những khoản thu được do kinh doanh ngoại tệ vì buôn bán với nước ngoài đòi hỏi
phải có ngoại tệ và ngân hàng chính là người đảm nhân vai trò cung cấp ngoại tệ cho các
bên tham gia buôn bán.
+ Những khoản lợi nhuận thu từ phí dịch vụ thanh toán quốc tế, lãi thu được từ tài trợ
thương mại mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Cũng qua đó tạo điều kiện cho các
dịch vụ bảo lãnh thanh toán, tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ... của
ngân hàng ngày càng phát triển.
+ TTQT làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Bởi lẽ muốn thanh toán qua ngân
hàng khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng
huy động số dư tài khoản tiền gửi của ngân hàng để cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
- Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro nhất(rủi ro tín dụng, rủi
ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh toán...)TTQT giúp ngân hàng phân tán rủi ro thông
qua việc kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Lợi nhuận thu được từ hoạt động TTQT sẽ hỗ
trợ khi thị trường biến động giúp ngân hàng phát triển ổn định bền vững. Hơn nữa thông
qua TTQT , ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu, có thông tin chính xác về tình hình tài chính của các doanh nghiệp này.
- Hoạt động TTQT giúp cho quy mô hoạt động của NH vượt ra khỏi phạm vi quốc
gia làm tăng cường quan hệ đối ngoại. NH thực hiện TTQT sẽ có được quan hệ đại lý với
ngân hàng và các đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ.
Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối quan hệ ngày càng mở rộng giúp khai
thác được các nguồn tài trợ của ngân hàng nước ngoài, nguồn vốn trên thị trường tài chính
quốc tế.
1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu được áp dụng trong TMQT
Phương thức TTQT là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch
mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Trong quan hệ ngoại
thương, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau thông qua ngân hàng như: chuyển
tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ ... Mỗi phương thức đều có ưu nhược điểm, thể hiện thành
mâu thuẫn quyền lợi giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.Vì vậy, việc chọn phương
thức thanh toán thích hợp phải được 2 bên bàn bạc thống nhất, ghi vào hợp đồng mua bán
ngoại thương.
1.3.1. Phương thức chuyển tiền.
a. Khái niệm:
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một khách hàng (người trả
tiền, người mua, người nhập khẩu, người mắc nợ...) ủy nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình
trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định chuyển cho người khác ( người bán,
người xuất khẩu, chủ nợ...) ở một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định.
Việc chuyển tiền xem như hoàn tất khi thanh toán hết số tiền cho người thụ hưởng;
trước thời điểm này, số tiền trong tài khoản vẫn thuộc quyền sở hữu của người chuyển tiền
và người này có quyền hủy bỏ lệnh chuyển tiền, mà người thụ hưởng không thể khiếu nại
gì với ngân hàng. Như vậy, việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua, quyền lợi
của người xuất khẩu không đảm bảo. Ngược lại nếu việc chuyển tiền được thực hiện trước
khi giao hàng hóa thì việc giao hàng phụ thuộc vào thiện chí của người bán, quyền lợi của
người nhập khẩu không đảm bảo.
Có hai hình thức chuyển tiền: chuyển tiền bằng thư (mail transfer, M/T) và chuyển
tiền bằng điện báo (telegraphic transfer T/T ).
b. quá trình tiến hành nghiệp vụ
Trong phương thức thanh toán này, có các bên liên quan:
- Người phát hành lệnh chuyển tiền (người mua, người nhập khẩu ...)
- Ngân hàng nhận thực hiện việc chuyển tiền (ngân hàng nơi đơn vị chuyển tiền mở
tài khoản tiền gửi ngoại tệ...)
-Ngân hàng trả chuyển tiền (ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền)
- Người nhận chuyển tiền (người bán, tổ chức xuất khẩu ...)
Bước 1: Sau khi thỏa thuận đi đến ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tổ chức
xuất khẩu thực hiện việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho tổ chức nhập khẩu, đồng thời
chuyển giao toàn bộ chứng từ(vận đơn, hóa đơn, chứng từ về hàng hóa...) cho tổ chức nhập
khẩu.
Bước 2: Tổ chức nhập khẩu sau khi kiểm tra chứng từ, hóa đơn, viết lệnh chuyển tiền
gửi đến ngân hàng phục vụ mình, trong đó phải ghi rõ ràng và đầy đủ những nội dung theo
quy định.
Bước 3: Sau khi kiểm tra, nếu hợp lệ và đủ khả năng thanh toán, ngân hàng sẽ trích
tài khoản của đơn vị để chuyển tiền, gửi giấy báo nợ, giấy báo đã thanh toán cho đơn vị
nhập khẩu.
Bước 4: Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh( bằng thư hay điện báo) cho ngân hàng đại lý
mình ở nước ngoài để chuyển trả cho người nhận tiền.
Bước 5: Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho người được hưởng(trực tiếp hoặc gián tiếp
qua ngân hàng khác) và gửi giấy báo Có cho đơn vị.
Quy trình thanh toán theo phương thức chuyển tiền
- Ưu điểm: Thanh toán chuyển tiền là thanh toán trực tiếp giữa người chuyển tiền và
người nhận. Đối với các NH đây là phương thức thanh toán đơn giản, ít rủi ro, dễ thực hiện
nhất trong các phương thức TTQT. Ngân hàng khi thực hiện việc chuyển tiền và trả tiền,
chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán theo ủy nhiệm để được hưởng hoa hồng, và không bị
ràng buộc gì cả đối với người mua lẫn người bán.
- Nhược điểm: Đối với người mua(khi trả tiền trước khi nhận hàng) và người bán(khi
giao hàng trước nhận tiền sau) thì đây là phương thức chứa đựng nhiều rủi ro. Còn đối với
NH khi thực hiện thanh toán theo phương thức này phí dịch vụ thu được thấp hơn so với
phương thức khác.
- Trường hợp áp dụng: phương thức này thường được áp dụng trong lĩnh vực chuyển
vốn hoặc cấp kinh phí ra nước ngoài, chuyển kiều hối, hay áp dụng trong thanh toán phi
mậu dịch hoặc thanh toán các chi phí có liên quan đến XNK hàng hóa. Tuy nhiên, nếu
được thực hiện để thanh toán tiền hàng thì chỉ sử dụng trong trường hợp 2 bên mua bán tin
cậy, tín nhiệm lẫn nhau.
1.3.2. Phương thức nhờ thu.
a. Khái niệm:
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán, mà qua đó tổ chức xuất
khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ gửi hàng, giao chứng từ hàng hóa ủy thác cho ngân
hàng phục vụ mình thu hộ số tiền trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra ở người nhập khẩu
thông qua ngân hàng phục vụ người nhập khẩu. Người nhập khẩu khi nhận được giấy báo
nhờ thu của ngân hàng, phải tiến hành ngay việc chi trả tiền để nhận lại chứng từ hàng hóa
và đi lãnh hàng.
Trong mối quan hệ này, ngân hàng ở cả hai bên nước nhà nhập khẩu lẫn nhà xuất
khẩu, chỉ tham gia với tư cách là người trung gian đi thu tiền hộ, có nhận giữ các chứng từ
có liên quan đến hàng hóa đã gửi đi, nhưng không bị ràng buộc trách nhiệm, phải kiểm tra
các chứng từ gửi nhờ thu, cũng như việc giấy nhờ thu có được nhà nhập khẩu chấp nhận và
thanh toán hay không. Phương thức thanh toán này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm lẫn
nhau giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, nó đảm bảo hơn hai hình thức thanh toán bằng
séc và chuyển tiền ở chỗ, nhà xuất khẩu yêu cầu ngân hàng bên mua không giao chứng từ
đi lãnh hàng cho nhà nhập khẩu, khi người này chưa thanh toán tiền. Tuy nhiên tốc độ
thanh toán vẫn chậm, rủi ro cho bên xuất khẩu lớn, trường hợp nhà nhập khẩu không chịu
thanh toán, từ chối nhận hàng vì lý do giá mua sản phẩm đang xuống thấp mà người bán
không chấp nhận giảm giá, và nhất là vì lô hàng nhập về không còn phù hợp thị hiếu người
tiêu dùng.
b. Quá trình tiến hành nghiệp vụ:
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, có các bên liên quan như sau:
- Tổ chức xuất khẩu, người cung ứng dịch vụ, người ký phát hối phiếu tức
là người ra lệnh.
- Ngân hàng nhờ thu là ngân hàng nhận sự ủy thác thu tiền, ngân hàng bên
xuất khẩu.
- Ngân hàng nhận nhiệm vụ thu tiền: thông thường là ngân hàng đại lý của
ngân hàng bên xuất khẩu tại nước nhập khẩu.
- Tổ chức nhập khẩu là người quyết định thanh toán, là người mà hối phiếu,
chứng từ sẽ gửi đến cho họ.
Căn cứ vào nội dung chứng từ thanh toán gửi đến ngân hàng nhờ thu, người ta chia
phương thức thanh toán này thành hai loại:
Nhờ thu phiếu trơn( Clean collection):Người xuất khẩu giao hàng và bộ chứng từ cho
người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu ủy quyền cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu
tiền từ người nhập khẩu.
Nhờ thu kèm chứng từ( Documentary collection): Người xuất khẩu chỉ giao hàng cho
người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu cùng bộ chứng từ giao hàng ủy quyền cho
ngân hàng phục vụ mình nhờ thu.
Quy trình
Bước 1: Người xuất khẩu sau khi ký hợp đồng, trong đó qui định phương thức thanh
toán là Nhờ thu, sẽ tiến hành giao hàng. Nếu là nhờ thu phiếu trơn thì giao cả bộ chứng từ
giao hàng cho người nhập khẩu.
Bước 2: Người xuất khẩu sau đó chuyển hối phiếu ( nếu là nhờ thu trơn) hoặc bộ
chứng từ kèm hối phiếu (nếu là nhờ thu kèm chứng từ) cho ngân hàng phục vụ mình ủy
thác để nhờ thu.
Bước 3: Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối phiếu kèm
chứng từ) cho ngân hàng phục vụ người nhập khẩu để nhờ thu.
Bước 4: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối phiếu kèm
chứng từ) cho người nhập khẩu để đổi lấy tiền hoặc đổi lấy sự chấp nhận của ngân hàng
mình.
Bước 5: Người nhập khẩu chuyển trả tiền hoặc trả lại hối phiếu đã chấp nhận cho
ngân hàng của mình.
Bước 6: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển tiền hoặc hối phiếu đã chấp
nhận cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 7: Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu báo Có hoặc trả lại hối phiếu cho người
xuất khẩu.
(Trong trường hợp nhờ thu đổi lấy sự chấp nhận, khi đến hạn thanh toán người nhập
khẩu tiến hành các bước (5)(6)(7) lần nữa để tiến hành thanh toán)
Quy trình thanh toán theo phương thức nhờ thu
Ưu nhược điểm :
- Nhờ thu phiếu trơn: Thích hợp khi hai bên mua bán tin cậy lẫn nhau hoặc áp dụng
trong thanh toán một số dịch vụ liên quan đến xuất khẩu hàng hóa không cần chứng từ.
Tuy vậy, nó có nhược điểm là chưa ràng buộc trách nhiệm trả tiền của người nhập khẩu
dẫn đến rủi ro không nhận được tiền hàng của người xuất khẩu hoặc bị kéo dài thời hạn
thanh toán, điều này không đảm bảo quyền lợi cho người bán. nhưng đối với người mua
phương thức này cũng mang lại nhiều bất lợi khi áp dụng nếu hối phiếu đến sớm hơn
chứng từ hàng hóa, người mua trả tiền ngay nhưng sau đó không biết việc giao hàng của
người bán có đúng hợp đồng không.
- Nhờ thu kèm chứng từ: phương thức này có ưu điểm là khắc phục được một phần
nhược điểm của nhờ thu phiếu trơn do nhờ ngân hàng thu hộ tiền và khống chế bộ chứng
từ hàng hóa. điều đó có nghĩa là quyền lợi của người xuất khẩu được đảm bảo vì thông qua
ngân hàng họ đã khống chế được quyền định đoạt hàng hóa đối với người mua. Nhưng
phương pháp này vẫn có nhược điểm là chưa hạn chế được việc trả tiền cũng như thời hạn
trả tiền của người mua, còn người mua thì lại không kiểm tra được số lượng, chất lượng
hàng hóa của người bán để biết có phù hợp như trong hợp đồng hay không.
1.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ.
Đây là phương thức thanh toán khá phổ biến trong thương mại quốc tế.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một thoả thuận mà trong đó một ngân
hàng (Ngân hàng phát hành thư tín dụng: Inssuing bank) đáp ứng những yêu cầu của khách
hàng (Người xin mở thư tín dụng: Applicant) cam kết hay cho phép một ngân hàng khác
(Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) cho trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của nhà xuất
khẩu theo đúng những điều kiện và chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín dụng.
II. Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.
2.1. quy trình nghiệp vụ.
Như vậy, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ liên quan đến các bên:
- Người xin mở thư tín dụng, người nhập khẩu hay người mua trong thư tín dụng:
“The applicant for the credit”
- Người thụ hưởng thư tín dụng, người xuất khấu hay người bán “benefitciary”
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng: the Issuing bank; the Opening bank
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng: the Advising bank
Ngoài ra, trong quá trình thương lượng, thanh toán thư tín dụng còn xuất hiện các bên:
- Ngân hàng thương lượng (Bộ chứng từ): the Negotiating bank
- Ngân hàng thanh toán: the Paying bank
- Ngân hàng xác nhận: the Confirming bank
- Ngân hàng hoàn tiền: the Remitting bank
Trong thực tế, ngân hàng Phát hành thường là ngân hàng Thanh toán hoặc ngân hàng
Hoàn tiền và ngân hàng Thông báo thường cũng đảm nhận luôn việc Thương lượng và
Xác nhận (nếu có yêu cầu của người thụ hưởng thông qua ngân hàng phát hành)
Sơ đồ quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
Quy trình
Bước 1: Người nhập khẩu và người xuất khẩu ký kết hợp đồng ngoại thương, trong
đó quy định phương thức thanh toán là tín dụng chứng từ
Bước 2: Người nhập khẩu lập thủ tục đề nghị ngân hàng phục vụ mình phát hành tín
dụng theo thư yêu cầu của mình định trong hợp đồng ngoại thương
Bước 3: Ngân hàng sau khi xem xét đề nghị mở tín dụng thư, nếu chấp thuận sẽ phát
hành thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 4: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, sau khi nhận được thông báo này sẽ
thông báo tín dụng thư cho người xuất khẩu.
Bước 5: Người xuất khẩu sau khi xem xét những ràng buộc trong tín dụng thư phù
hợp với thoả thuận trong hợp đồng, sẽ tiến hành giao hàng. Nếu không sẽ đề nghị ngân
hàng phục vụ mình thực hiện việc tu chỉnh.
Bước 6: Người xuất khẩu tập hợp chứng từ theo yêu cầu trong thư tín dụng, xuất
trình chứng từ với ngân hàng phục vụ mình.
Bước 7: Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu(ngân hàng thông báo) sau khi kiểm tra
chứng từ lần nữa, sẽ gửi bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, yêu cầu
thanh toán theo chỉ định.
Bước 8: Sau khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu tiến hành
thanh toán cho người xuất khẩu (nếu bộ chứng từ hợp lệ) hoặc thông báo bất hợp lệ chứng
từ thông qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 9: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (NH mở L/C)giao bộ chứng từ nhận
hàng cho người nhập khẩu để đổi lấy việc thanh toán hoặc cấp tín dụng.
Bước 10: Người nhập khẩu sau khi kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì thanh toán
cho ngân hàng nếu không sẽ từ chối thanh toán.
Đối với ngân hàng phương thức này có ưu điểm:
+ Phí dịch vụ thu được lớn hơn các hình thức khác. Ngoài việc thu phí mở thư tín
dụng, ngân hàng còn sẽ thu được thêm phí tu