Thanh niên - sinh viên là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là nguồn lực quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa
xuân của xã hội". Nếu không có thế hệ trẻ, sẽ không có sự phát triển nối tiếp lịch sử của
mỗi quốc gia, dân tộc, cũng như không có sự phát triển của nhân loại. Chính vì vậy,
trong các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên cả về trình độ học vấn, chuyên môn đến lý
tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị v.v.. để sinh viên trở thành người chủ tương lai của
dân tộc vừa “hồng” vừa “chuyên”, là lớp người xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của dân tộc vì mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ chế độ bao cấp và
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức
đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam . Bên cạnh mặt tích cực, quá trình toàn
cầu hoá cũng bộc lộ không ít hạn chế, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội, tác
động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực đạo
đức.
Sinh viên là một tầng lớp xã hội “đặc thù”, năng động, sáng tạo trong học tập, có ý
chí vươn lên, thích tìm tòi cái mới và dễ thích nghi với cái mới v.v. nhưng do kinh
nghiệm và vốn sống còn hạn chế, sự trải nghiệm chưa nhiều… nên sinh viên cũng dễ bị
ảnh hưởng từ mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, từ những phức tạp của xu thế toàn cầu
hoá.
Thực tế cho thấy, bên cạnh đại bộ phận sinh viên say mê trong học tập, chịu khó
trong trau dồi, rèn luyện đạo đức, phẩm chất nhân cách để trở thành những chủ nhân
tương lai của đất nước, vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên sống thực dụng, xa
hoa, lãng phí, thậm chí có lối sống “thác loạn”, xa rời truyền thống đạo lý của dân tộc.
Tại đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự
gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [17, tr.172 - 173]
Để khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận sinh viên, để không
ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan
cộng sản cho sinh viên, đào tạo các thế hệ sinh viên Việt Nam kế tục và phát huy
nguyên khí quốc gia, lực lượng bổ sung quan trọng cho đội ngũ trí thức trong tương lai,
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, thì “Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hoá hiện nay” càng trở nên cấp thiết.
104 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2328 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh
viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hoá hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên - sinh viên là một lực lượng đông đảo trong xã hội, là nguồn lực quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa
xuân của xã hội". Nếu không có thế hệ trẻ, sẽ không có sự phát triển nối tiếp lịch sử của
mỗi quốc gia, dân tộc, cũng như không có sự phát triển của nhân loại. Chính vì vậy,
trong các thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên cả về trình độ học vấn, chuyên môn đến lý
tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị v.v.. để sinh viên trở thành người chủ tương lai của
dân tộc vừa “hồng” vừa “chuyên”, là lớp người xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của dân tộc vì mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ chế độ bao cấp và
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức
đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh mặt tích cực, quá trình toàn
cầu hoá cũng bộc lộ không ít hạn chế, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội, tác
động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực đạo
đức.
Sinh viên là một tầng lớp xã hội “đặc thù”, năng động, sáng tạo trong học tập, có ý
chí vươn lên, thích tìm tòi cái mới và dễ thích nghi với cái mới v.v. nhưng do kinh
nghiệm và vốn sống còn hạn chế, sự trải nghiệm chưa nhiều… nên sinh viên cũng dễ bị
ảnh hưởng từ mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, từ những phức tạp của xu thế toàn cầu
hoá.
Thực tế cho thấy, bên cạnh đại bộ phận sinh viên say mê trong học tập, chịu khó
trong trau dồi, rèn luyện đạo đức, phẩm chất nhân cách để trở thành những chủ nhân
tương lai của đất nước, vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên sống thực dụng, xa
hoa, lãng phí, thậm chí có lối sống “thác loạn”, xa rời truyền thống đạo lý của dân tộc.
Tại đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự
gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [17, tr.172 - 173]
Để khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận sinh viên, để không
ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan
cộng sản cho sinh viên, đào tạo các thế hệ sinh viên Việt Nam kế tục và phát huy
nguyên khí quốc gia, lực lượng bổ sung quan trọng cho đội ngũ trí thức trong tương lai,
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, thì “Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hoá hiện nay” càng trở nên cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình, bài viết, nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu
về công tác giáo dục đạo đức, lối sống và lý tưởng cách mạng cho thanh niên - sinh viên
trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tiêu biểu là một số công trình sau đây:
- Nhóm các đề tài và luận văn viết về đạo đức thanh niên - sinh viên, có:
+“Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện mới”, Báo
cáo khoa học của Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (1996-1997).
+ Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (2002): “Giá trị truyền thống trước
thử thách toàn cầu hoá” Nxb Chính trị Quốc gia.
+ “Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - thực trạng, vấn đề và giải pháp”, đề tài cấp Đại
học Quốc Gia Hà Nội (năm 2003).
+ “Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của TS Võ Minh
Tuấn (2003).
+ “Xây dựng lối sống có văn hoá của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong
công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa", Luận án TS của Đặng Thành
Quang (2005).
+ “Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay”, Kỷ
yếu hội thảo của Đảng uỷ khối cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng (2005); “Xây
dựng bản lĩnh thanh niên hiện nay” do TS Hồ Bá Thâm (chủ biên) (2006).
+ “Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay”,Báo cáo khoa học
chuyên đề Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tháng 10 năm 2007.
+ Lê Hữu Nghĩa, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên) “ Xu thế toàn cầu
hoá trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007.
+ “Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam - thực
trạng và giải pháp (qua khảo sát một số trường Đại học và Cao đẳng ở Hà Nội)”, luận văn
thạc sỹ triết học của Vũ Thanh Hương ( 2004).
+ “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua
thực tế một số trường Đại học và Cao đẳng ở thành phố Hà Nội)”, luận văn thạc sỹ triết
học của Doãn Thị Chín (2004); v.v..
- Nhóm các bài trên các tạp chí viết về đạo đức trong xu thế toàn cầu hoá hiện
nay:
+ Đặng Cảnh Khanh (2000): “Vấn đề toàn cầu hoá và thế hệ trẻ Việt Nam hiện
nay” Tạp chí Cộng sản; Vương Thị Bích Thuỷ (2000)
+ “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống ở nước ta trong bối cảnh
toàn cầu hoá”, Tạp chí nghiên cứu lý luận.
+ “Toàn cầu hoá: lợi và hại”, Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội năm 2000; Lê Thị
Tuyết Ba (2003) “Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Triết học.
+ Nguyễn Trọng Chuẩn (1995) “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của
các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”.
+ Tạp chí triết học; Đỗ Huy (1998) “Định hướng xã hội chủ nghĩa về quan hệ đạo
đức cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay”.
+ Tạp chí Triết học; Nguyễn Trọng Chuẩn (2001) “Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”.
+ Tạp chí Triết học; Đỗ Huy (2002) “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những
hành vi đạo đức cá nhân”.
+ Tạp chí Triết học; Nguyễn Thế Kiệt (1996) “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế
trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”.
+ Võ Minh Tuấn (2004) “Tác động toàn cầu hoá đến đạo đức sinh viên hiện nay”.
+ Tạp chí Triết học; Phạm Hữu Tiến (2005): “Đấu tranh chống mặt tiêu cực của
toàn cầu hoá” Tạp chí Cộng sản.
+ Trần Văn Miều (2007) “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ”, Tạp chí
Xây dựng Đảng.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên, từ nhiều góc độ
khác nhau, đã làm sáng tỏ tác động hai mặt của bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế tới sự biến đổi của đạo đức xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới, đề ra
một số phương hướng để đẩy mạnh quá trình xây dựng đạo đức trong bối cảnh toàn cầu
hoá. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Những
đề tài trên đã cung cấp cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn quan trọng để tác giả đi sâu
nghiên cứu những vấn đề mà đề tài của tác giả đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, từ đó luận văn đề xuất các giải pháp chủ yếu để xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận của đạo đức mới và tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức
mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
- Phân tích, đánh giá ưu, khuyết điểm, chỉ ra nguyên nhân của những mặt tồn tại hạn
chế trong thực trạng đạo đức mới của sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hoá đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ phức tạp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng đạo đức
mới, tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trong toàn quốc,
chủ yếu là sinh viên hệ chính quy.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, kế thừa có chọn lọc
những giá trị của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích và tổng hợp, thống kê, so
sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, các phương pháp chuyên ngành và liên ngành
khác.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề xây dựng đạo đức mới cho sinh viên
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản để xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hoá .
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về xây dựng
đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên.
- Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các công trình khoa
học, công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận liên quan đến
vai trò đạo đức trong đời sống xã hội của con người.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG, YÊU CẦU CỦA VIỆC
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY
1.1. ĐẠO ĐỨC MỚI VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG
ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
HOÁ
1.1.1. Khái niệm đạo đức và đạo đức mới
- Khái niệm đạo đức (Morality)
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm trong lịch sử loài người
và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Vì vậy,
trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn đề đạo đức luôn luôn được xã hội
quan tâm, đặc biệt là các nhà triết học.
Cho đến hiện nay bàn về đạo đức có nhiều hệ thống lý thuyết tiêu biểu, tiếp cận đạo
đức theo các khuynh hướng khác nhau.
Một là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm khách quan và của
các nhà thần học. Các nhà triết học duy tâm khách quan Platôn và Hêghen lấy “ý niệm”
hoặc “ý niệm tuyệt đối” để lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức. Còn các nhà thần học
cho đạo đức có nguồn gốc từ thần thánh, con người và xã hội chẳng qua chỉ là những
hình thái biểu hiện cụ thể khác của đấng thần linh và những chuẩn mực đạo đức do thần
thánh tạo ra để giáo dục con người.
Hai là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Họ coi đạo
đức như là năng lực “tiên thiên” của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay “thiện ý” theo
cách gọi của I.Kantơ: là một năng lực có tính nhất thành, bất biến, có trước kinh
nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con
người.
Ba là, các khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa duy vật. Họ đã nhìn thấy
đạo đức trong quan hệ của con người, nhưng con người chỉ là một thực thể trừu tượng,
bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Tiêu biểu cho quan niệm này là nhà triết học cổ điển Đức: Phoi ơ Bắc.
Bốn là, khuynh hướng tiếp cận đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khác với các
cách tiếp cận của chủ nghĩa duy tâm khách quan và duy vật tầm thường, C.Mác và
Ph.Ăngghen dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã xây dựng một
học thuyết đạo đức có tính cách mạng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định đạo đức
gắn với phương thức sản xuất và điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội “Xét đến cùng
mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế
của xã hội lúc bấy giờ”[50, tr.137]. Như vậy, các hiện tượng đạo đức ở các thời đại khác
nhau nó có tính chất khác nhau, trong xã hội có giai cấp thì đạo đức có tính giai cấp.
Cho nên, không thể coi đạo đức là nhất thành, bất biến, vĩnh viễn như lý thuyết của một
số nhà đạo đức trước kia đề ra.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
đạo đức giống mọi hình thái khác là phản ánh tồn tại xã hội của con người. Tiếp tục
phát triển quan niệm đạo đức nói trên, G.Bandzeladze cho rằng: “Đạo đức là hệ thống
những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của những con người trong
quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung. Bản chất đạo đức là sự quan
tâm tự giác của những con người đến lợi ích của nhau, đến lợi ích xã hội” [31, tr.104]
Đến nay, các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về đạo đức. Để có
một sự thống nhất cao về khái niệm đạo đức, là vấn đề rất khó. Ở đây, chúng tôi đồng ý
với quan niệm của tập thể các nhà khoa học ở Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh cho rằng:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui
tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện
với niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [33,
tr.8].
Đạo đức là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Đạo
đức đánh giá hành vi của con người theo chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành
khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự
phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy có tính tích cực, có tính nhân đạo. Ngược lại, nếu hệ
thống giá trị đạo đức không phù hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy mang tính
tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
- Khái niệm đạo đức mới
Sự vận động phát triển của xã hội loài người là một quá trình “lịch sử -tự nhiên” từ
thấp đến cao, thông qua sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Phù hợp
với mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể có một kiểu đạo đức tương ứng.
Hình thức sơ khai của các quan hệ đạo đức đã xuất hiện rất sớm, trong xã hội Cộng
sản nguyên thuỷ. Lúc đó, đạo đức được biểu hiện thông qua các hành vi giao tiếp, ứng
xử trong các điều cấm kỵ như: không được lấy phần của nhau, không được đàn áp nhau,
không được nói dối. Do điều kiện kinh tế, sinh hoạt xã hội còn ở trình độ lạc hậu, đạo
đức bị lẫn lộn vào tập quán, phong tục, tín ngưỡng, lễ nghi tôn giáo. Các quy ước, chế
định có tác dụng điều chỉnh hành vi con người mang ý nghĩa, giá trị đạo đức.
Cùng với sự vận động phát triển của nền sản xuất xã hội, mối quan hệ giữa người
với người ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng và phong phú hơn. Xã hội chiếm hữu nô
lệ ra đời, xã hội đầu tiên có sự phân chia giai cấp và đạo đức mang tính giai cấp: Đạo
đức chủ nô và đạo đức nô lệ. Đặc điểm lớn của đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ là
thừa nhận phẩm chất cao quý và quyền uy tuyệt đối của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ
nô, những kẻ đặc quyền, đặc lợi, tự cho phép mình là người thượng lưu, là tầng lớp quý
tộc, và chỉ họ mới là người có đạo đức. Còn nô lệ, họ đề cao phẩm chất người lao động
và quyền tự do, bình đẳng của con người, giai cấp nô lệ hiểu rõ được giá trị đích thực
của lao động, của những tình cảm nảy sinh phát triển từ trong quá trình lao động. Họ coi
lao động là nguồn gốc, là cơ sở của đạo đức, là niềm tin hạnh phúc lớn lao của cuộc
sống con người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ đã thể hiện xung đột của hai loại hình
đạo đức trái ngược nhau, điều đó phản ánh điều kiện kinh tế và lợi ích giai cấp trong xã
hội đó. Tuy nhiên, đạo đức của giai cấp chủ nô - giai cấp thống trị xã hội đóng vai trò
chi phối, thống trị đời sống đạo đức xã hội lúc bấy giờ.
Xã hội phong kiến ra đời thay thế cho xã hội chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất
phong kiến được xác lập, kéo theo những thay đổi lớn trong đời sống xã hội, trong đó
có đời sống đạo đức. Xã hội phong kiến phần nào đã cho con người lao động được giải
thoát khỏi kiếp nô lệ, nhưng đồng thời lại trói buộc con người vào những thiết chế xã
hội khắc nghiệt và xuất hiện kiểu bóc lột mới - kiểu bóc lột phong kiến. Giai cấp địa chủ
phong kiến luôn trói buộc con người vào những luật lệ hà khắc, xơ cứng, tạo ra sự đối
kháng về mặt đạo đức trong xã hội. Đó là sự phụ thuộc, phục tùng những đấng bề trên,
phụ thuộc và phục tùng vương quyền, thần quyền.
Quần chúng nhân dân lao động, những người được coi là tầng lớp dưới của xã hội,
xuất phát từ địa vị kinh tế- xã hội, từ lợi ích của mình đã tạo ra những chuẩn mực đạo đức
riêng phù hợp với đời sống của họ. Bản chất đạo đức của nhân dân lao động vẫn là tình
thương yêu đối với con người, với nội dung ứng xử chủ yếu là công bằng, bình đẳng, tương
thân, tương ái đối với mọi người.
Chế độ tư bản thay thế chế độ phong kiến là một bước tiến trên con đường phát triển
của lịch sử xã hội, vì nó đập tan xiềng xích của chế độ nông nô, xoá bỏ tình trạng cát cứ
của phong kiến, mở ra những quan hệ kinh tế mới. Sự thay thế quan hệ sản xuất phong
kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến sự biến đổi cả hệ thống đạo đức xã
hội. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ thâm nhập vào tất cả đời sống xã hội, phá tan những sợi
dây đạo đức trói buộc con người. Ở chế độ tư bản chủ nghĩa, cá nhân được giải phóng
khỏi sự ràng buộc bởi quan hệ đẳng cấp khắc nghiệt, ý thức con người đã bắt đầu thích
nghi với những nguyên tắc, của nền kinh tế thị trường đang thâm nhập vào các quan hệ
đạo đức. Khi mới ra đời, đạo đức tư sản là một bước tiến bộ lớn. Nó đấu tranh xoá bỏ
quan hệ chật hẹp đẳng cấp, giải phóng cá nhân khỏi mọi áp bức của xã hội phong kiến
và Giáo hội Thiên Chúa giáo, đề cao chủ nghĩa cá nhân, sự thừa nhận tự trị và những
quyền tuyệt đối của các cá nhân trong xã hội. Nhưng trong quá trình phát triển của mình
với những quan điểm “duy lợi”, “vị kỷ” và định hướng giá trị chung là sự giàu có, tiện
nghi coi đó là những giá trị cao nhất. Điều này, đã làm cho chủ nghĩa cá nhân ngày càng
trở nên phản nhân đạo, đưa ra sự giàu có của cá nhân làm nguyên tắc quyết định mọi
quan hệ đạo đức trong xã hội. Chủ nghĩa tư bản làm nảy sinh ra một lớp người sống xa
hoa trên sự đau khổ của người khác, nhân cách con người ngày càng bị tha hoá. Về vấn
đề này, C.Mác viết:
Mọi sự dường như chất chứa mâu thuẫn, chúng ta cho rằng máy móc có
một sức mạnh kỳ diệu rút ngắn lao động của con người, làm cho lao động sản
xuất dồi dào hơn, nhưng nó đem lại cho con người nạn đói và sự kiệt quệ.
Những nguồn của cải mới, từ trước đến nay chưa từng có, do một phép lạ nào
kỳ quặc và khó hiểu biến thành ngọn nguồn của sự nghèo khổ. Chiến thắng
của kỹ thuật dường như được mua bằng giá của sự sa đoạ về đạo đức. Người
ta có cảm tưởng rằng nhân loại càng chinh phục được bao nhiêu thì con người
càng trở thành nô lệ của người khác hoặc trở thành nô lệ của sự đê tiện của
chính mình bấy nhiêu [49, tr.10]
Những mâu thuẫn trong đạo đức của xã hội tư bản cần phải được khắc phục, được xoá bỏ
bởi sự ra đời của một nền đạo đức tiến bộ hơn. C.Mác - Ph.Ăngghen đã dự báo cho sự xuất
hiện nền đạo đức mới với tính cách là biểu hiện về mặt đạo đức của xã hội mới, xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Sự hình thành đạo đức mới trên cơ sở của đạo đức vô sản gắn liền với cuộc đấu