Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế- xã hội phổ biến và luôn mang tính
thời sự ở mọi quốc gia, bởi vì đảm bảo việc làm là một trong những yếu tố cơ bản cho sự
phát triển bền vững. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc làm
cho người lao động là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân".
Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế và v ăn hoá của đất nước, là địa phương nằm trong
tam giác kinh t ế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vì vậy, trong thời gian
qua Hà Nội đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào phát triển kinh
tế, tạo những bước chuyển biến quan trọng đối với thủ đô trên nhiều lĩnh vực trong đó có giải
quyết việc làm.
Tuy nhiên, do Hà Nội đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và xu hướng đô thị hoá gia tăng nó đòi hỏi người lao động phải có trình độ, được đào tạo
phải có tác phong công nghiệp thì mới đáp ứng được yêu cầu, lao động ở ngoại thành hiện
nay chưa thể đáp ứng được yêu cầu này do mặt bằng trình độ thấp, tỷ lệ lao động qua đào
tạo chưa cao, lao động giản đơn là chủ yếu.v.v... không có việc làm sẽ nảy sinh nhiều vấn
đề kinh tế - xã hội phức tạp vì vậy tạo việc làm cho lực lượng lao động, đặc biệt là lực
lượng lao động ở khu vực ngoại thành bao gồm 5 huyện: Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh,
Sóc Sơn, Từ Liêm là vấn đề cấp bách.
Để đánh giá lại những kết quả đã đạt được và những tồn tại vướng mắc, trong vấn đề
giải quyết việc làm cho lao động ở ngoại thành Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
hữu hiệu cho vấn đề tạo việc làm nhằm góp phần vào sự ổn định và phát triển của thủ đô
trong những năm tới, tác giả đã chọn đề tài: " Việc làm cho người lao động ngoại thành
Hà Nội trong quá trỡnh đô thị hoá " làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
123 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2141 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Việc làm cho người lao động ngoại
thành Hà Nội trong quá trình đô
thị hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế- xã hội phổ biến và luôn mang tính
thời sự ở mọi quốc gia, bởi vì đảm bảo việc làm là một trong những yếu tố cơ bản cho sự
phát triển bền vững. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc làm
cho người lao động là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân".
Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế và văn hoá của đất nước, là địa phương nằm trong
tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vì vậy, trong thời gian
qua Hà Nội đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào phát triển kinh
tế, tạo những bước chuyển biến quan trọng đối với thủ đô trên nhiều lĩnh vực trong đó có giải
quyết việc làm.
Tuy nhiên, do Hà Nội đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và xu hướng đô thị hoá gia tăng nó đòi hỏi người lao động phải có trình độ, được đào tạo
phải có tác phong công nghiệp thì mới đáp ứng được yêu cầu, lao động ở ngoại thành hiện
nay chưa thể đáp ứng được yêu cầu này do mặt bằng trình độ thấp, tỷ lệ lao động qua đào
tạo chưa cao, lao động giản đơn là chủ yếu.v.v... không có việc làm sẽ nảy sinh nhiều vấn
đề kinh tế - xã hội phức tạp vì vậy tạo việc làm cho lực lượng lao động, đặc biệt là lực
lượng lao động ở khu vực ngoại thành bao gồm 5 huyện: Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh,
Sóc Sơn, Từ Liêm là vấn đề cấp bách.
Để đánh giá lại những kết quả đã đạt được và những tồn tại vướng mắc, trong vấn đề
giải quyết việc làm cho lao động ở ngoại thành Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
hữu hiệu cho vấn đề tạo việc làm nhằm góp phần vào sự ổn định và phát triển của thủ đô
trong những năm tới, tác giả đã chọn đề tài: " Việc làm cho người lao động ngoại thành
Hà Nội trong quá trỡnh đô thị hoá " làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc
làm. Có thể nêu ra một số đề tài sau:
- TS Nguyễn Hữu Dũng: Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô
thị hoá công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn - Tạp chí Lao động - Xã hội số 247 (từ
16- 30/9/2004). Tác giả đề cập đến thực trạng về lao động và việc làm ở nông thôn trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đồng thời đưa ra những phương
hướng và giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề lao động và việc làm nông thôn.
- PGS,TS Nguyễn Sinh Cúc: Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt
ra, Tạp chí Con số và sự kiện- 2003- số 8. Trong bài viết tác giả đã đề cập những biến
động của tính hình dân số ở nông thôn và những xu hướng mới tạo việc làm ở nông thôn:
từ kinh tế trang trại, khôi phục và phát triển các làng nghề nông thôn, tạo việc làm mới từ
phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, từ
các chương trình dự án quốc gia và quốc tế.
- TS Vũ Đình Thắng: Vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển 2002 - số 3. Trong bài viết, tác giả đánh giá tầm quan trọng và những kết quả đã
đạt được về giải quyết việc làm đặc biệt là ở khu vực nông thôn bằng cách phát triển các
ngành phi nông nghiệp với phương châm: ly nông bất ly hương.
- GS,TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam - Tạp chí Kinh tế
và Phát triển 2002- số 64. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá hiện trạng việc làm và thất
nghiệp trên cơ sở đó đề ra những quan điểm và biện pháp giải quyết việc làm cho người
lao động.
- TS Nguyễn Tiệp: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp
tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 309 (6/2004). Trong bài viết, tác
giả đề cập đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là phù hợp với yêu cầu của
quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn. Là kết quả của phát triển lực lượng sản xuất
và phân công lại lao động ở nông thôn. Đồng thời, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nông thôn còn chịu sức ép giải quyết việc làm, tăng mức cầu lao động trên địa bàn nông
thôn.
- TS Trương Văn Phúc: Thực trạng lao động việc làm qua kết quả điều tra 1- 7-
2004, Tạp chí Lao động - xã hội, số 251 (16- 30/11/2004). Trong bài viết, tác giả đề cập
đến tình trạng lao động và việc làm của lực lượng lao động ở các tỉnh, thành phố cũng như
ở những vùng kinh tế trọng điểm. Nó đánh giá một cách khái quát những kết quả đã đạt
được về giải quyết việc làm cho lực lượng lao động. Trong đó, có đề cập đến lao động
ngoại thành, một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng lao động chung của xã hội.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về việc
làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá dưới góc độ kinh tế
chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
- Góp phần nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề về lý luận và thực tiễn trong lĩnh
vực việc làm, tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hoá.
- Phân tích về thực trạng, chỉ ra phương hướng tạo việc làm cho lao động ngoại thành
Hà Nội trong quá trình đô thị hoá hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản để tạo việc làm trong cho lao động ngoại thành
trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ bản chất của việc làm, bản chất của tạo việc làm, nội dung của nó và sự cần
thiết phải tạo việc làm cho người lao động.
- Tập trung phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ngoại thành: quy
mô tạo việc làm cho người lao động, quá trình tạo việc làm, những nhân tố tác động đến
quá trình tạo việc làm. Đồng thời đánh giá những nguyên nhân, hạn chế về kết quả tạo việc
làm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm tạo việc làm cho lao động ngoại
thành trong quá trình đô thị hoá từ nay đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn đề cập trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm cho toàn bộ lực lượng lao
động nông nghiệp đang sinh sống ở khu vực ngoại thành do Thành phố quản lý.
- Luận văn tập trung vào nội dung tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà
Nội trong quá trình đô thị hoá từ năm 2001 trở lại đây. Nhiệm vụ này được giao cho nhiều
tổ chức thực hiện nhưng luận văn tập trung khai thác thông tin từ Sở LĐTB – XH Hà Nội.
Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cơ bản cho vấn đề này đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam cùng với những
chủ trương và chính sách của Nhà nước về vấn đề lao động việc làm.
Ngoài ra luận văn còn dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của các công trình khoa
học đã được công bố, để nghiên cứu vấn đề việc làm và tạo việc làm ở ngoại thành Hà Nội
- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logíc kết hợp
với lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương
pháp thống kê, so sánh…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn, đã trình bày một số lý luận cơ bản về việc làm và tạo việc làm, đã đề xuất
những giải pháp để đẩy mạnh tạo việc làm cho lao động ngoại thành Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Tạo việc làm cho người lao động
ngoại thành Hà nội trong quá trình đô thị hoá - một nhu cầu bức xúc
1.1. Đô thị hoá và tác động của nó đối với vấn đề việc làm
1.1.1. Đô thị hoá - một xu thế tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
1.1.1.1. Tính tất yếu, nội dung và tác động của quá trình đô thị hoá
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá (CNH, HĐH& ĐTH) là con
đường phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, thời đại
khoa học- công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, kinh tế tri thức đang dần đi vào
cuộc sống và toàn cầu hoá là một xu thế không gì có thể cưỡng lại được thì công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường giúp các nước chậm phát triển rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước.Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội từ một nước nông nghiệp chưa phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có
nghĩa là chúng ta đang chuyển từ một nền kinh tế tiền tư bản đi lên chủ nghĩa xã
hội, vì vậy chúng ta phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho một xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng
ta là phải thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII đã
nêu định nghĩa khái quát về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội, từ
sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra
năng xuất lao động xã hội cao [18, tr.4].
Như vậy CNH,HĐH là một khái niệm rộng, thực hiện CNH,HĐH trong tất cả
các mặt hoạt động của đời sống xã hội, trong đó nội dung nổi bật chính là quá trình
cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc và áp dụng kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại để đạt được năng suất lao động cao. Kết quả mà
quá trình này đem lại là tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật về
con người và khoa học- công nghệ thúc đẩy qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Một vấn đề quan
trọng trong quá trình CNH,HĐH là phải làm sao giải quyết đồng thời mối quan hệ
giữa phát triển nền sản xuất với giải quyết được các vấn đề xã hội nảy sinh trong
quá trình CNH,HĐH như vấn đề giải phóng việc làm và các vấn đề xã hội khác.
Chúng ta biết rằng, đi kèm với việc áp dụng máy móc, kỹ thuật vào trong sản
xuất sẽ làm thay đổi tính chất của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất chỉ sử dụng
ít lao động sống và sử dụng nhiều máy móc thay thế. Hệ quả của việc này là dư thừa
lao động: người lao động không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không đầy đủ.
Mặt khác qúa trình CNH,HĐH cũng làm xuất hiện những ngành kinh tế mới, có thể
thu hút được một số lượng lao động nhất định. Nhưng nhìn chung, tình hình người
lao động không có việc làm vẫn tăng nhanh hơn tỷ lệ người lao động tìm được việc
làm.
Như vậy CNH,HĐH sẽ dẫn đến sự thay đổi to lớn về nhiều mặt. Về mặt kinh
tế, CNH, HĐH làm thay đổi phương thức sản xuất và cơ cấu nền kinh tế, làm cho
nền kinh tế có một bước phát triển mới về chất, đó là nền kinh tế dựa trên nền đại
công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao. Về mặt xã hội, đó là quá trình đô thị hoá.
Trong nền kinh tế hiện đại, đô thị hoá không chỉ đơn thuần là sự hình thành các đô
thị mới mà đó là một nấc thang tiến hoá vượt bậc của xã hội với một trình độ văn
minh mới, một phương thức hoạt động mới. Đó là cách thức tổ chức, bố trí lực
lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị hoá:
Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố lại lực lượng sản xuất trong nền kinh tế
quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo
kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị theo chiều rộng và theo chiều sâu trên cơ sở
hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó là quá
trình tập trung, tăng cường, phân hoá các hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ
số dân thành thị trong các vùng, các quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Đồng
thời, đô thị hoá cũng là quá trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng
rãi lối sống thành thị trong dân cư.
Theo quan niệm trên chúng tôi cho rằng: Đô thị hoá được hiểu đó là quá trình
biến đổi, chuyển biến về nhiều mặt kinh tế- xã hội của các khu vực trước đây là sản
xuất nông nghiệp, khu vực nông thôn để trở thành các khu đô thị, khu chế xuất, khu
công nghiệp phục vụ cho sản xuất công nghiệp và các ngành dịch vụ. Như vậy, ta
thấy về bản chất của đô thị hoá là sự phát triển các cụm kinh tế công nghiệp, dịch
vụ, kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển các cụm dân cư theo hình thức và điều kiện
sống mang tính chất công nghiệp, đô thị sầm uất. Đây là một xu thế tất yếu xảy ra
đối với tất cả các quốc gia, các thành phố lớn khi thực hiện chuyển đổi từ nền kinh
tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước tiếp cận với nền kinh tế
tri thức, vì đô thị hoá tạo ra cơ sở thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội,
cơ cấu lại kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó có thủ đô Hà
Nội.
Khái niệm pháp quy về đô thị hoá ở Việt Nam: Điểm dân cư được coi là đô thị
hoá phải có các tiêu chí cơ bản sau đây:
- Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội trong phạm vi cả nước, một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện
hoặc một vùng trong tỉnh hay huyện.
- Có quy mô dân số nội thị nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp
hơn).
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở lên trong tổng số lao động
của nội thị, là nơi sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển.
- Có kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô
thị hoá từng phần hoặc đồng bộ.
- Mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km2.
Đô thị hoá có hai hình thức biểu hiện chủ yếu:
Một là, đô thị hoá theo chiều rộng trong đó quá trình đô thị hoá diễn ra tại các
khu vực trước đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở rộng quy mô
diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận,
phường mới. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị không ngừng gia tăng,
các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt động của kinh tế đô thị không
ngừng mở rộng; các hoạt động sản xuất kinh doanh và điểm dân cư ngày càng tập
trung. Sự hình thành các đô thị mới được tạo ra trên cơ sở phát triển các khu công
nghiệp và trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô
là xu hướng tất yếu của sự phát triển là nhân tố mở đường thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Đô thị hoá theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các
nước đang phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
Hai là, đô thị hoá theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hoá và nâng cao
trình độ của các đô thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức
và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ thuật, công nghệ
ngày càng tăng cường; hiệu quả kinh tế - xã hội cũng ngày càng được cải thiện và
nâng cao. Đô thị hoá theo chiều sâu là quá trình thường xuyên, là yêu cầu tất yếu
của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá trình đó đòi hỏi các nhà quản lý đô thị
và các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận động và phải biết
điều tiết, tận dụng tối đa những tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên
cơ sở hiện đại hoá trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị.
Đô thị hoá là một tiến trình rất đa dạng, trong nó có chứa đựng nhiều hiện
tượng và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển. Trên quan điểm một vùng,
đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo
kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một quá trình biến đổi
về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những
vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo
chiều sâu. Đô thị hoá là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô
thị của các nhóm dân cư, gắn liền với những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của
và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch
vụ.v.v.. Do vậy, đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đô thị hoá
nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật; đó là quá trình phát triển nông
thôn và phổ biến lối sống thành phố cho các vùng nông thôn (cách sống, hình thức
nhà cửa, phong cách sinh hoạt…); Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng
bền vững. Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành
phố do kết quả phát triển công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng, tạo ra các cụm đô
thị, liên đô thị, góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn.
Trong quá trình CNH, HĐH sự hình thành các đô thị hiện đại có vai trò đặc
biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh nông thôn, đô thị là
hình thái quần cư cơ bản thứ hai của xã hội loài người. Trên thế giới, đô thị ra đời
rất sớm nhưng chỉ thật sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và
đến nay đô thị đã trở thành một hiện tượng xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh
hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội.
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng trưởng, phát
triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế thông qua quá trình
phân bố lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ, văn hoá, xã hội. Với sự
phát triển của hệ thống các đô thị, nhiều nước đã từng bước hình thành được những
vùng lãnh thổ phát triển, không chỉ đảm nhận chức năng động lực, thúc đẩy sự phát
triển toàn bộ kinh tế - xã hội đất nước mà còn đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập
quốc tế, vừa đảm nhận vai trò tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học,
công nghệ, kinh tế, văn hoá của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh (Xem
phụ lục 1).
Sự hình thành các đô thị có những đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát
triển của một quốc gia:
+ Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ của
nền kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Chẳng hạn chỉ tính riêng bốn
thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng năm 2004
chiếm khoảng 14% dân số, tạo ra 36,4% GDP, 45,7% giá trị sản lượng công nghiệp
và gần 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Các đô thị này đã trở thành những vùng
động lực có tốc độ tăng trưởng cao và có đóng góp quan trọng vào việc tăng quy mô
của nền kinh tế, tăng giá trị công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu của cả nước.
+ Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và không ngừng gia tăng sự tập
trung lớn các năng lực sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp một khối lượng
đáng kể những sản phẩm công nghiệp và dịch vụ với chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của
nhiều vùng trong nước và nguồn hàng cho xuất khẩu. Số liệu sau đây cho thấy rõ vai trò
của bốn đô thị lớn nhất ở Việt Nam ( Xem phụ lục 2).
+ Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học
kỹ thuật, thương mại của các vùng và cả nước là những “đầu tàu” trong nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là hợp tác và giao lưu quốc tế. Các hoạt động dịch vụ quan trọng như
xuất nhập khẩu, tài chính, tiền tệ, vận tải, du lịch, khoa học công nghệ từ các đô thị
lớn bắt đầu có sức lan toả và thúc đẩy sự phát triển chung của các lãnh thổ trên
phạm vi cả nước.
+ Các đô thị có ưu thế về nhân lực được đào tạo chất lượng cao, có khả năng
nhanh chóng tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến, trên cơ sở đó tạo ra các công
nghệ và các trang thiết bị hiện đại không chỉ phục vụ cho sự phát triển của bản thân
đô thị mà còn đáp ứng cho nhu cầu của các vùng l