Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước,
được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập
và cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp
đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt
Nam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế.
Khu vực Đông Bắc á có các nước có trình độ cao về phát triển kinh tế, khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật Bản còn là nước công nghệ nguồn, là khu vực có nhu
cầu nhập khẩu nhiều loại lao động. Vì vậy, XKLĐ sang khu vực này còn có mục đích tiếp
thu các kiến thức khoa học công nghệ (KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm
quản lý, kinh doanh hiện đại từ các nước trong khu vực này, nâng cao tay nghề và rèn
luyện tác phong công nghiệp cho người lao động. Thực tế, khu vực Đông Bắc á là một thị
trường XKLĐ khu vực quan trọng đối với Việt Nam, trong đó các nước nhập khẩu lao
động (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những năm 1990 đến
nay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này chiếm tỷ trọng lớn và có tác động
tích cực đối với người lao động cũng như đối với sự phát triển chung của các ngành, địa
phương của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của
Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có
những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xảy ra hiện tượng lao động Việt
Nam bị phân biệt đối xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm dụng, lao
động tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp, v.v. Đặc biệt,
số lượng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ngày càng lớn, đến mức các nước
này đã nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trường nếu Việt Nam không tìm cách ngăn chặn
và giải quyết dứt điểm, thậm chí Đài Loan đã tạm thời ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam
ở một số lĩnh vực. Những vấn đề đó đã tác động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động của
Việt Nam với các nước trong khu vực, là nguyên nhân gây ra nguy cơ bị đóng băng hoặc
mất thị trường XKLĐ vào tay các nước XKLĐ khác, làm phức tạp thêm tình hình, gây khó
khăn cho công tác quản lý lao động Việt Nam ở các nước này. Hơn nữa, xét về tầm chiến
lược, những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ làm mất uy tín của người lao
động cũng như các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế,
tạo dư luận và tâm lý không tốt trong xã hội đối với hoạt động XKLĐ, ảnh hưởng xấu tới
mục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này trong thời gian
tới.
Từ tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động
XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á để tìm ra những nguyên nhân
của thành công và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm, đưa ra các giải pháp nhằm hạn
chế những phát sinh tiêu cực, thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường
khu vực này phát triển là rất có ý nghĩa và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, vấn
đề " Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á - thực
trạng và giải pháp " được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ
115 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu lao động của Việt Nam vào thị trường khu vực Đông Bắc Á - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Xuất khẩu lao động của Việt Nam
sang thị trường khu vực Đông Bắc Á
- thực trạng và giải pháp
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và Nhà nước,
được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập
và cải thiện đời sống cho một bộ phận lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
XKLĐ còn là biện pháp để tiếp thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp
đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt
Nam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc tế.
Khu vực Đông Bắc á có các nước có trình độ cao về phát triển kinh tế, khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, trong đó Nhật Bản còn là nước công nghệ nguồn, là khu vực có nhu
cầu nhập khẩu nhiều loại lao động. Vì vậy, XKLĐ sang khu vực này còn có mục đích tiếp
thu các kiến thức khoa học công nghệ (KHCN), kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm
quản lý, kinh doanh hiện đại từ các nước trong khu vực này, nâng cao tay nghề và rèn
luyện tác phong công nghiệp cho người lao động. Thực tế, khu vực Đông Bắc á là một thị
trường XKLĐ khu vực quan trọng đối với Việt Nam, trong đó các nước nhập khẩu lao
động (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những năm 1990 đến
nay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này chiếm tỷ trọng lớn và có tác động
tích cực đối với người lao động cũng như đối với sự phát triển chung của các ngành, địa
phương của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của
Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, có
những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro. Xảy ra hiện tượng lao động Việt
Nam bị phân biệt đối xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm dụng, lao
động tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cư trú bất hợp pháp, v.v... Đặc biệt,
số lượng lao động Việt Nam tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ngày càng lớn, đến mức các nước
này đã nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trường nếu Việt Nam không tìm cách ngăn chặn
và giải quyết dứt điểm, thậm chí Đài Loan đã tạm thời ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam
ở một số lĩnh vực. Những vấn đề đó đã tác động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động của
Việt Nam với các nước trong khu vực, là nguyên nhân gây ra nguy cơ bị đóng băng hoặc
mất thị trường XKLĐ vào tay các nước XKLĐ khác, làm phức tạp thêm tình hình, gây khó
khăn cho công tác quản lý lao động Việt Nam ở các nước này. Hơn nữa, xét về tầm chiến
lược, những vấn đề đó nếu không được giải quyết triệt để sẽ làm mất uy tín của người lao
động cũng như các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế,
tạo dư luận và tâm lý không tốt trong xã hội đối với hoạt động XKLĐ, ảnh hưởng xấu tới
mục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực này trong thời gian
tới.
Từ tình hình thực tế nêu trên, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động
XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á để tìm ra những nguyên nhân
của thành công và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm, đưa ra các giải pháp nhằm hạn
chế những phát sinh tiêu cực, thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường
khu vực này phát triển là rất có ý nghĩa và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, vấn
đề " Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á - thực
trạng và giải pháp " được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở nước ta trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
XKLĐ, như: Nguyễn Lương Trào (1993): Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc đưa lao
động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài - Luận án tiến sĩ kinh tế; Cao Văn Sâm (1994):
Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế xuất khẩu lao động - Luận án tiến sĩ kinh tế; Trần
Văn Hằng (1995): Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động
trong giai đoạn 1995-2010 - Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số
vấn đề về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩ
kinh tế chính trị; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩu
lao động - thực trạng và giải pháp - Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế; Nguyễn Phúc Khanh
(2004): Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giải
pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ. Ngoài ra còn có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ
sở, các bài nghiên cứu đăng trên nhiều tạp chí viết về vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu này nhìn chung đã tiếp cận vấn đề XKLĐ của Việt
Nam ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung nhiều vào việc phân tích đánh giá hoạt động
XKLĐ của Việt Nam nói chung, hoặc về các khía cạnh chính sách, cơ chế quản lý hoạt
động XKLĐ. Tuy đề cập đến thực trạng và hướng phát triển XKLĐ của Việt Nam sang
các nước thuộc khu vực Đông Bắc á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, nhưng các
công trình này mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá chung, tổng quát, chưa đi sâu vào phân
tích, đánh giá đầy đủ về nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài (LĐNN) của khu vực
cũng như hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Hơn
nữa, trong điều kiện nền kinh tế thế giới, khu vực và bản thân Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan cũng luôn hàm chứa những yếu tố có tác động không nhỏ tới việc tuyển dụng LĐNN
ở từng nước, hoạt động XKLĐ của nước ta còn nhiều tồn tại, khó khăn, có nhiều diễn biến
phức tạp chưa giải quyết được thì việc nghiên cứu, làm rõ cả về lý luận và thực tiễn về
XKLĐ nói chung, hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á
nói riêng cần phải được tiến hành thường xuyên, để từ đó đưa ra được các giải pháp phù
hợp thúc đẩy hoạt động này tăng trưởng ổn định và phát triển bền vững.
Do đó, tiếp tục nghiên cứu về XKLĐ nói chung và hoạt động XKLĐ của Việt
Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á nói riêng là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về XKLĐ
của một số nước và ở nước ta trong thời gian qua, luận văn có mục đích xác định những
quan điểm cơ bản về hoạt động XKLĐ và kiến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt
động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á trong thời gian tới, góp
phần phát triển hoạt động XKLĐ nói chung của nước ta.
Để thực hiện được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ chính sau đây:
- Phân tích làm rõ bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ và
vai trò của hoạt động XKLĐ.
- Khái quát những kinh nghiệm của một số nước về XKLĐ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường
khu vực Đông Bắc á; rút ra một số kinh nghiệm đối với hoạt động XKLĐ của Việt Nam.
- Phân tích nhu cầu tuyển dụng LĐNN của khu vực Đông Bắc á và nêu phương
hướng XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á.
- Xác định một số quan điểm về hoạt động XKLĐ cần nhận thức đúng; đề xuất
một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế và đẩy mạnh hoạt động XKLĐ của Việt Nam
sang thị trường khu vực Đông Bắc á.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu XKLĐ với tính chất là một hoạt động xuất khẩu hàng hóa
sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt và chỉ nghiên cứu hình thức XKLĐ trực tiếp:
đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại các nước và vùng lãnh thổ ngoài Việt
Nam theo các hợp đồng cung ứng lao động giữa các tổ chức kinh tế của Việt Nam và
nước ngoài, có sự quản lý của nhà nước.
Hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á được thực hiện chính
thức từ năm 1992 và chủ yếu là XKLĐ sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Vì vậy,
nghiên cứu thực trạng hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc
á chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu hoạt động XKLĐ trực tiếp của Việt Nam sang các
thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan từ năm 1992 đến năm 2004. Đối tượng nghiên
cứu là hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh
doanh và làm dịch vụ giúp việc tại các nước và vùng lãnh thổ này.
Thuật ngữ xuất khẩu sức lao động và xuất khẩu lao động được dùng tương đương
trong luận văn và đồng nhất về cách hiểu, mặc dù về khía cạnh khoa học, chỉ có sức lao
động mới là hàng hóa và là đối tượng của trao đổi, mua bán, trong đó có xuất khẩu. Người
lao động ở các trình độ, nghề nghiệp khác nhau được đưa đi làm việc ở nước ngoài theo
các hợp đồng cung ứng lao động được nghiên cứu chung là lao động xuất khẩu (LĐXK).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác như thống kê,
phân tích, so sánh và tổng hợp một cách logíc, có kế thừa những kết quả nghiên cứu của
các công trình nghiên cứu khoa học trước đây để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động XKLĐ.
- Làm rõ nhu cầu tuyển dụng LĐNN của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan và
phương hướng XKLĐ của Việt Nam sang các nước này.
- Tìm ra một số nguyên nhân của thành công và hạn chế trong hoạt động XKLĐ
của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc á, rút ra một số kinh nghiệm về hoạt
động XKLĐ của Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế các phát sinh
tiêu cực, đồng thời thúc đẩy hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông
Bắc á phát triển trong thời gian tới.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính
sách kinh tế - xã hội, nhất là đối với những người làm công tác XKLĐ, các nhà nghiên cứu
và các độc giả quan tâm.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Về Xuất Khẩu LAO Động
1.1. Xuất khẩu lao động - một hình thức hợp tác kinh tế quốc tế
Xuất khẩu lao động là một hoạt động có tính chất phức tạp, nhạy cảm do liên quan
trực tiếp đến con người, tới nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, quan hệ đối ngoại
cũng như do có nhiều quan điểm và nhận thức khác nhau. Bởi vậy, làm rõ bản chất, đặc
điểm, các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ sẽ giúp cho có được một cách nhìn toàn
diện, thống nhất về quan điểm trong lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động XKLĐ ở
nước ta.
1.1.1. Bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Một số vấn đề liên quan đến thuật ngữ XKLĐ
Theo cách hiểu thông thường, việc khảo sát thị trường lao động, tìm kiếm người
sử dụng lao động ở nước ngoài, ký kết các hiệp định hợp tác hoặc hợp đồng lao động, tiến
hành đưa người lao động đi làm việc ở các nước và các hoạt động kèm theo là nội dung
chính của hoạt động XKLĐ. Theo cách hiểu đó, hoạt động XKLĐ bao hàm việc di chuyển
của người lao động từ một nước này đến nước khác làm việc. Tuy nhiên, không phải bất
cứ một sự di chuyển lao động nào như vậy của người lao động đều là hoạt động XKLĐ.
Vấn đề này, ở các quốc gia, thậm chí ở một quốc gia, tùy từng điều kiện cụ thể mà người
ta có các cách hiểu, quan niệm khác nhau. Nhưng nhìn chung, về thực chất, sự di chuyển
này là việc người lao động đi làm thuê cho người sử dụng lao động ở ngoài nước.
Để làm rõ bản chất cũng như đưa ra được khái niệm đầy đủ về hoạt động XKLĐ,
cần xem xét tới một số vấn đề liên quan sau:
Thị trường lao động: Là thị trường trao đổi sức lao động, là một không gian trao
đổi, tiến tới một thỏa thuận giữa người sở hữu sức lao động và người cần sức lao động đó
để sử dụng. Kết quả của sự trao đổi đó là sự thỏa thuận bằng hợp đồng về tiền công cùng
với một số điều kiện khác cho một công việc cụ thể. Thị trường lao động chính là biểu
hiện của sự trao đổi, là mối quan hệ kinh tế cần thiết giữa người sở hữu và người sử dụng
sức lao động. Hàng hóa trên thị trường lao động là sức lao động - một loại hàng hóa đặc biệt,
giá cả của nó cũng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, nhất là quy luật cung - cầu.
Lao động di cư (migrant worker) chỉ người lao động di chuyển từ nước này sang
nước khác để làm việc, thuộc phạm trù di dân quốc tế (international migration). Di dân
quốc tế bao gồm những vấn đề lớn hơn khái niệm lao động di cư, để chỉ những người hoặc
dòng người di chuyển từ nước này sang nước khác vì nhiều mục đích khác nhau, với nhiều
lứa tuổi khác nhau, trong đó có một bộ phận thuộc lực lượng lao động.
Xuất khẩu lao động: Được hiểu như là công việc đưa người lao động từ một nước
đi lao động tại nước có nhu cầu thuê mướn, sử dụng lao động. Nó có liên quan đến các
khái niệm: lao động xuất cư - chủ yếu đề cập tới người lao động ra đi từ một nước nào đó
tới nước mà họ lao động; lao động nhập cư - chủ yếu đề cập đến người lao động từ nước
ngoài vào một nước nào đó để làm việc; lao động xuất khẩu - đề cập đến người lao động
của một nước có độ tuổi, sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau được đưa đi làm việc ở
ngoài nước theo các quy định của pháp luật nước đó.
Trên thế giới, thuật ngữ thông dụng để chỉ sự di chuyển của người lao động ra
khỏi biên giới một nước là lao động di cư hay lao động di trú. Theo Điều 11 của Công ước
số 97 (1949) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khái niệm người lao động di cư chỉ một
người di cư từ nước này sang một nước khác để làm thuê cho người khác [47]. Như vậy,
bất cứ sự di chuyển nào của người lao động từ nước này đến nước khác để làm việc đều
được gọi chung là lao động di cư, không phân biệt hình thức tổ chức và đối tượng tham
gia. Với cách hiểu này, thuật ngữ lao động di cư chỉ phản ánh biểu hiện bề ngoài sự di
chuyển của người lao động đi làm việc ở nước ngoài dưới bất kỳ hình thức nào, chưa thể
hiện được bản chất của nó là quá trình mua bán sức lao động giữa người lao động (người
sở hữu sức lao động) với người thuê lao động (người sử dụng sức lao động). Hơn nữa, khái
niệm cũng bao hàm và không phân biệt các trường hợp di chuyển hợp pháp (có sự quản lý
của nhà nước) và di chuyển bất hợp pháp (nhà nước không kiểm soát được) của người lao
động.
ở Việt Nam, liên quan đến sự di chuyển của người lao động đi làm việc ở nước
ngoài có một số quan niệm, thuật ngữ được sử dụng ở các thời kỳ khác nhau như: hợp tác
quốc tế về lao động, đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, xuất khẩu
lao động.
Hợp tác quốc tế về lao động hay hợp tác quốc tế về sử dụng lao động là cụm từ
được sử dụng vào những năm 1980, phản ánh hoạt động cung ứng và tiếp nhận lao động
giữa Việt Nam với một số nước xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước ở châu Phi và Trung
Đông theo các hiệp định chính phủ. Như vậy, hợp tác quốc tế về lao động bao gồm các
hoạt động: đưa lao động Việt Nam sang nước khác làm việc, cung cấp lao động cho nước
ngoài sử dụng ngay trong nước và tiếp nhận LĐNN vào Việt Nam làm việc. Nhưng thực tế
lúc đó chủ yếu là Việt Nam thực hiện cung cấp lao động đáp ứng nhu cầu lao động bị thiếu
hụt ở các nước tiếp nhận, được thể hiện dưới hình thức Nhà nước tuyển chọn và trực tiếp
đưa lao động ra nước ngoài nhằm mục đích đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề ở các nước
tiếp nhận trên tinh thần giúp đỡ, hợp tác hữu nghị, chưa chú trọng đến mục đích kinh tế. Vì
vậy, "hợp tác quốc tế về lao động" chỉ được sử dụng với nghĩa hẹp, phù hợp với cơ chế
quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung và điều kiện lịch sử lúc đó, không thể hiện được bản
chất của nó đó là sự trao đổi, mua bán hàng hóa sức lao động trên cơ sở ngang giá và cân
bằng lợi ích giữa các chủ thể tham gia.
Đưa người lao động đi làm việc (có thời hạn) ở nước ngoài: Là cụm từ được sử
dụng vào đầu những năm 1990 thay cho cụm từ hợp tác quốc tế về lao động, gắn liền với
sự thay đổi nhận thức về sức lao động và quan niệm về việc đưa lao động ra nước làm
việc. Sức lao động đã được thừa nhận là một hàng hóa có thể trao đổi, mua bán ở cả trong
và ngoài nước. Hoạt động đưa người lao động ra nước ngoài là nhằm các mục tiêu: kinh tế
(thu nhập cho người lao động và thu ngoại tệ cho đất nước), xã hội (giải quyết việc làm);
quan hệ quốc tế (hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật), được thực hiện theo các
hình thức tổ chức: hiệp định giữa hai chính phủ (nếu có); các hợp đồng cung ứng lao động
giữa các tổ chức kinh tế của Việt Nam và nước ngoài; các hợp đồng lao động giữa người
lao động với các tổ chức kinh tế Việt Nam hoặc các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài
[22]. Nhà nước không trực tiếp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài mà chủ yếu do các
tổ chức kinh tế được cấp phép đảm nhiệm. Hoạt động này đã phản ánh sát thực bản chất
của việc cung ứng và tiếp nhận lao động giữa các quốc gia, đó là sự trao đổi, mua bán hàng
hóa sức lao động nhằm mục đích kinh tế - xã hội, nằm trong quỹ đạo của nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Xuất khẩu lao động: Là thuật ngữ hiện được sử dụng phổ biến, có ý nghĩa tương
đương với cụm từ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài trên các phương tiện
thông tin đại chúng, trong nhiều văn bản pháp luật, tài liệu nghiên cứu về người lao động
đi làm việc ở ngoài nước. Trong cơ chế kinh tế thị trường, XKLĐ phản ánh hoạt động
cung - cầu lao động trên thị trường lao động quốc tế theo các quy luật kinh tế, trên cơ sở
giá cả của hàng hóa sức lao động và lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia; phản ánh
được sự khác biệt giữa hình thức tổ chức đưa lao động ra nước ngoài làm việc một cách
hợp pháp với các hình thức tổ chức khác.
1.1.1.2. Bản chất của hoạt động XKLĐ
Từ hiện tượng di chuyển lao động tự do đến XKLĐ là một quá trình gắn liền với
quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước. Đó cũng là một quá trình nhận thức khách quan
về vai trò của người lao động và sức lao động tiềm ẩn trong các nước dư thừa lao động.
Vấn đề di chuyển lao động và XKLĐ về thực chất là việc đem sức lao động từ một nước
này tới một nước khác nhằm mục đích kinh tế, nhưng giữa chúng có sự khác nhau về chất.
Việc di chuyển lao động ban đầu mang tính tự phát còn việc di chuyển lao động trong
XKLĐ lại mang tính tự giác, tức là có việc tổ chức đưa lao động đi và về kèm theo hạch
toán kinh tế, có ý nghĩa chiến lược của một quốc gia. Như vậy, XKLĐ bản thân nó là một
hoạt động nhằm mục đích kinh tế, có liên quan đến nhiều vấn đề nhạy cảm và phức tạp vì
gắn liền với hoạt động của người lao động.
Từ thực tế nêu trên cùng với tính đặc biệt của hàng hóa sức lao động đã tạo ra sự
phức tạp trong hoạt động XKLĐ, do đó vẫn còn có những điểm khác nhau trong các khái
niệm khi nghiên cứu về hoạt động XKLĐ ở Việt Nam.
Dưới góc độ chuyên ngành kinh tế và tổ chức lao động, theo tác giả Nguyễn
Lương Trào: "Việc tổ chức đưa lao động ra nước ngoài làm việc được nhà nước xem đó là
một lĩnh vực hoạt động kinh tế hợp pháp và cho phép các tổ chức kinh tế (nhà nước hoặc
tư nhân) thực hiện thì đó chính là hoạt động xuất khẩu lao động" [45, tr. 5].
Trên giác độ phân tích một hoạt động nghiệp vụ ngoại thương, tác giả Nguyễn
Phúc Khanh cho rằng: "Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế đối ngoại đặc thù của một
quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở hợp đồng có
thời hạn, có tính chất pháp quy được thống nhất giữa quốc gia đưa và nhận lao động" [25,
tr. 10].
Phân tích XKLĐ dưới góc độ quản lý kinh tế, XKLĐ được quan niệm: "Xuất khẩu
lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một
quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định, hợp đồng giữa các nhà nước, tổ chức kinh tế,
pháp nhân, cá nhân của quốc gia xuất khẩu với các quốc gia nhập khẩu" [44, tr. 5].
Có thể thấy, trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, theo cách tiếp cận khác
nhau, người nghiên cứu đưa ra các khái niệm khác n