Dân chủ là khát vọng sâu xa, cũng là thành tựu cuộc đấu tranh lâu dài của các dân tộc và của loài người. Trong xã hội ta, xã hội do nhân dân làm chủ thì dân chủ vừa là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội vừa là cơ chế và phương thức để vận hành quyền lực của nhân dân trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội. Luật pháp của nước ta bảo đảm quyền tự do, bình đẳng của công dân, coi nhân dân là cội nguồn của sức mạnh và là người nắm giữ quyền lực. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa mở rộng tức là khả năng thu hút tạo điều kiện để nhân dân ngày càng tham gia sâu sắc vào công việc của Nhà nước, tham gia xây dựng luật pháp, chính sách, hưởng quyền lợi và chủ động thực hiện tốt nghĩa vụ của công dân. Ở mỗi nước, trình độ của nền dân chủ trong xã hội tùy thuộc phần lớn vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, quyền hạn và năng lực thực hiện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Xã hội ta càng phát triển càng đòi hỏi và càng có điều kiện mở rộng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
15 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1857 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đưa cuộc vận động thực hiện quy chế dân chủ cơ sở lên một bước mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đưa cuộc vận động thực hiện quy chế dân chủ cơ sở lên một bước mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn
Ngày 21/10/2004. Cập nhật lúc 17h 18'
Trong hai ngày 28 và 29-9-2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị (khóa VIII) về Xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Tại Hội nghị này, đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu quan trọng. (ĐCSVN) xin trân trọng giới thiệu toàn văn nội dung bài phát biểu đó. Dân chủ là khát vọng sâu xa, cũng là thành tựu cuộc đấu tranh lâu dài của các dân tộc và của loài người. Trong xã hội ta, xã hội do nhân dân làm chủ thì dân chủ vừa là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội vừa là cơ chế và phương thức để vận hành quyền lực của nhân dân trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội. Luật pháp của nước ta bảo đảm quyền tự do, bình đẳng của công dân, coi nhân dân là cội nguồn của sức mạnh và là người nắm giữ quyền lực. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa mở rộng tức là khả năng thu hút tạo điều kiện để nhân dân ngày càng tham gia sâu sắc vào công việc của Nhà nước, tham gia xây dựng luật pháp, chính sách, hưởng quyền lợi và chủ động thực hiện tốt nghĩa vụ của công dân. Ở mỗi nước, trình độ của nền dân chủ trong xã hội tùy thuộc phần lớn vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, quyền hạn và năng lực thực hiện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Xã hội ta càng phát triển càng đòi hỏi và càng có điều kiện mở rộng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ có tính ưu việt so với tất cả các nền dân chủ từ trước đến nay, nó thể hiện đầy đủ nhất quyền của nhân dân làm chủ đất nước, xã hội, được hưởng các lợi ích chính đáng do luật pháp của nhà nước bảo đảm, do đó là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử. Đảng ta coi đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực của sự phát triển xã hội, coi phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" là biểu hiện cụ thể về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống ở cơ sở. Trong Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Nhà nước đã quy định những việc, những nội dung để nhân dân được biết, được bàn, được quyết định, được làm, được kiểm tra. Đó thực sự là một bước tiến trong việc thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và nâng cao chất lượng dân chủ đại diện của nhân dân. Thực tế 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã chứng minh được tính đúng đắn và sáng tạo của sự lãnh đạo của Đảng ta. Theo các báo cáo tổng kết được trình bày tại Hội nghị này, Quy chế Dân chủ ở cơ sở thể hiện ý Đảng hợp với lòng dân, đã được đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực thực hiện. Quy chế đã đem lại nhiều kết quả và ý nghĩa thiết thực về nhiều mặt, góp phần làm chuyển biến đáng kể nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể, giữ vững sự ổn định và phát triển chế độ chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm cho người dân có điều kiện tham gia trực tiếp vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đoàn thể với nhân dân. Trong cuộc sống ở cơ sở, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được tôn trọng, sức mạnh về vật chất và tinh thần của nhân dân được thể hiện thành các phong trào thi đua yêu nước, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng đời sống văn hóa. Bằng sức mạnh của Nhà nước và của nhân dân, hàng vạn công trình lớn nhỏ như: đường giao thông, công trình thủy lợi, thủy điện, trường học, trạm y tế, bệnh viện đã được xây dựng với hàng ngàn tỉ đồng và hàng chục triệu ngày công do nhân dân đóng góp; hơn 17 vạn ngôi nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, vườn cây tình nghĩa, nhiều tỉ đồng tiền trợ giúp, sổ tiết kiệm, sổ bảo hiểm... được trao tặng cho các hộ nghèo và các gia đình chính sách, gia đình có công với nước. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở còn góp phần làm chuyển biến phương thức lãnh đạo, công tác điều hành, quản lý và lề lối làm việc của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, nâng cao thêm tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, tạo dựng bầu không khí dân chủ, cởi mở và tăng cường sự đồng thuận trong xã hội. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, các cấp ủy đảng đã chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, làm từng bước vững chắc, có chỉ đạo điểm, rút kinh nghiệm, triển khai từ trong Đảng, trong cán bộ rồi mới mở rộng ra nhân dân, nhân ra diện rộng. Công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, đúc rút kinh nghiệm cũng có những tiến bộ đáng ghi nhận. Thay mặt Bộ Chính trị, tôi nhiệt liệt biểu dương các địa phương, đơn vị đã quán triệt và chỉ đạo triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở trong 6 năm qua. Trong khi khẳng định những kết quả đạt được, chúng ta cũng thấy rõ rằng, thực trạng dân chủ ở cơ sở chưa làm cho chúng ta hài lòng. Quy chế Dân chủ ở cơ sở ban hành đã 6 năm, song vẫn còn một bộ phận cơ quan hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước chưa triển khai thực hiện; trong số địa phương, đơn vị đã thực hiện thì chỉ xấp xỉ một phần ba làm tốt. Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, các ngành còn chưa đúng đắn về tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Lãnh đạo, điều hành chưa thống nhất, chỉ đạo thực hiện không thường xuyên, có nơi còn nặng về hình thức, buông lỏng hoặc khoán trắng cho Ban Chỉ đạo... Do vậy, tại Hội nghị này, tôi đề nghị các đồng chí đại biểu khi thảo luận cần nhìn thẳng vào sự thật, phân tích rõ chất lượng và hiệu quả về chính trị, kinh tế - xã hội do phát huy dân chủ mang lại, căn cứ vào yêu cầu và nội dung Quy chế Dân chủ đề ra cho từng loại hình cơ sở mà trả lời cho được câu hỏi: đã thực sự đạt yêu cầu của Chỉ thị Bộ Chính trị đề ra chưa? Phải chăng nhờ thực hiện được một phần chủ trương "dân biết", "dân bàn" mà nhìn chung đông đảo nhân dân đã phát huy được trí tuệ, đóng góp tích cực vào chủ trương và chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở? Còn những vấn đề và nội dung đã giao cho dân được trực tiếp quyết định thì sao? Vì sao ở nơi này, nơi khác, tình hình khiếu kiện về mất dân chủ và các tranh chấp kinh tế từ các cơ sở vẫn tiếp tục gia tăng? Vì sao cơ chế bảo đảm việc "dân kiểm tra", Mặt trận và các đoàn thể giám sát lại chưa làm được nhiều, nhất là trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội? Tại sao Quy chế thực hiện ở khu vực các cơ quan, doanh nghiệp tác dụng còn hạn chế? Thông qua việc kiểm điểm thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các đồng chí cần tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa bản chất nền dân chủ của ta, đặc biệt là mối quan hệ giữa dân chủ với kinh tế, dân sinh và dân trí cũng như mối quan hệ giữa dân chủ với pháp luật và kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng và toàn dân ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Nền dân chủ mà chúng ta đang ra sức xây dựng là nền dân chủ của tuyệt đại đa số nhân dân, gắn với công bằng và tiến bộ xã hội trong từng bước phát triển và từng chính sách phát triển. Nhờ đổi mới toàn diện và phát huy dân chủ mạnh mẽ, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội và các mặt khác, qua đó, càng thấy rõ mối quan hệ khăng khít giữa dân chủ với kinh tế: dân chủ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển và sự phát triển về kinh tế là điều kiện cơ bản, cần thiết cho việc xây dựng một nền dân chủ tiến bộ. Bác Hồ nói: "Lãnh đạo một nước mà để cho dân mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ". Với ý nghĩa ấy, chủ trương xóa đói giảm nghèo, nâng cao từng bước đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, các vùng, miền trong cả nước cùng phát triển chính là sự phát huy dân chủ một cách thiết thực nhất. Dân chủ là phạm trù chính trị - xã hội, mang đậm dấu ấn của truyền thống, đặc điểm dân tộc và lợi ích dân tộc. Không một nước nào có quyền áp đặt các khái niệm và nội dung dân chủ của mình cho các quốc gia khác. Do đó, chúng ta kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" xuyên tạc các vấn đề dân tộc, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ nước ta. Nhưng trong nước, chúng ta kiên quyết thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta phát huy sức mạnh toàn dân tộc, trong đó sức mạnh của chế độ nhân dân làm chủ gắn bó hữu cơ với sức mạnh của nền kinh tế, của chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở là khâu đột phá trong toàn bộ quá trình phát huy dân chủ xã hội trong thời kỳ mới. Trong khi hết sức coi trọng việc phát huy dân chủ từ cấp Trung ương, nơi hoạch định các chủ trương và chính sách vĩ mô, coi trọng phát huy dân chủ ở các cấp địa phương, nơi vận dụng một cách hiệu quả các chủ trương và chính sách của Trung ương tại địa phương, cũng là cầu nối giữa Trung ương và cơ sở, chúng ta phải ra sức nắm lấy việc phát huy dân chủ cơ sở, thực hiện một cách đầy đủ và toàn diện Quy chế Dân chủ ở cơ sở để tạo ra một bước tiến mạnh mẽ trong thực hiện chế độ dân chủ ở nước ta. Phải coi trọng Quy chế như là một bảo bối, thật sự chỉ đạo, thực hiện có nền nếp và duy trì một cách thường xuyên, liên tục. Đẩy mạnh dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân từ trung ương đến cơ sở trở thành giải pháp hữu hiệu, hỗ trợ cho cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đảng ta từng khẳng định dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị - xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới xã hội ta. Trước mắt, cần phát huy những kết quả việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước để thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005), chuẩn bị cho Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng . Dân chủ với pháp luật, kỷ cương, kỷ luật là những mặt thống nhất trong chế độ dân chủ. Quyền dân chủ của mỗi công dân được thể hiện trong luật pháp và được luật pháp bảo đảm. Cho nên thực thi dân chủ phải đi đôi với thực thi pháp luật, dân chủ đi liền với kỷ cương, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm. Dân chủ càng được mở rộng thì việc thực thi pháp luật càng có hiệu quả. Điều đáng nói là hiện nay, bên cạnh việc thực hiện chưa tốt các Quy chế lại đang có tình hình trật tự, kỷ cương không nghiêm, thiếu tôn trọng pháp luật. Đã có nhiều hiện tượng lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền dân chủ của số đông nhân dân. Do đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nhân dân nhận thức đầy đủ rằng, muốn dân chủ được phát huy, nhất thiết phải tôn trọng pháp luật, giữ vững kỷ cương. Cần có nhiều hình thức, biện pháp có hiệu quả hơn nữa trong phổ biến sâu rộng các chính sách, pháp luật trong nhân dân. Phải giữ vững kỷ cương, pháp luật ngay trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, thực hiện thống nhất trong cả nước, từ trên xuống dười, từ trong Đảng ra ngoài xã hội. Đảng ta là Đảng cầm quyền, không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mục tiêu cao nhất của Đảng ta là đấu tranh nhằm giải phóng triệt để con người, mang lại quyền làm chủ thực sự cho nhân dân. Để phát huy dân chủ xã hội, Đảng ta phải nêu gương về dân chủ và lãnh đạo chặt chẽ quá trình phát huy dân chủ. Trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ đến sinh hoạt cấp ủy, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; đấu tranh kiên quyết với những hiện tượng độc đoán, chuyên quyền cũng như dân chủ hình thức, vô tổ chức, vô kỷ luật, gây mất đoàn kết nội bộ. Thực hành dân chủ trong sinh hoạt đảng đi liền với việc nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng, đồng thời thực hiện tốt các quy định, để nhân dân tham gia góp ý, phê bình xây dựng Đảng. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Quy chế Dân chủ ở cơ sở là trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, trước hết là của đồng chí bí thư cấp ủy đảng và của thủ trưởng cơ quan nhà nước. Cấp ủy đảng cần tiếp tục đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo theo hướng dân chủ, tôn trọng tôn chỉ, mục đích, điều lệ và các luật liên quan đến các tổ chức quần chúng, tuyệt đối không áp đặt, làm thay, mà giữ định hướng và luôn gợi mở sự chủ động và sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cần chuyển mạnh các hoạt động của mình về cơ sở, sát nhân dân, làm việc theo tinh thần "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, và có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin", khắc phục bằng được lối làm việc hành chính, quan liêu, xa dân. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra Nghị quyết quan trọng về "Một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng". Có liên quan tới việc tiếp tục thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, trong thời gian tới, tôi đề nghị các đồng chí đặc biệt quan tâm đến một số nội dung sau: Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc 5 quan điểm chỉ đạo của Đảng đã được nêu trong Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc đưa cuộc vận động thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở lên một bước mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Hai là, thực hiện những giải pháp đồng bộ, nhằm từng bước hoàn thiện cơ chế làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện Quy chế trong Đảng, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đổi mới phương thức hoạt động, xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở nhằm thực hiện Quy chế trong cả ba loại hình cơ sở. Ba là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, biết thông qua việc chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở mà hướng dẫn và phát huy quyền làm chủ và tính tự quản của dân, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, không tham nhũng, ức hiếp dân, được dân tín nhiệm. Kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy của Đảng và chính quyền những cán bộ, đảng viên, công chức thoái hóa, biến chất, tham nhũng, sách nhiễu dân và kịp thời thay thế những người không đáp ứng yêu cầu công việc. Bốn là, coi trọng việc tổ chức chỉ đạo thực hiện Quy chế từ trung ương đến cơ sở, đưa nội dung Quy chế Dân chủ ở cơ sở vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, cơ sở, của các cấp, các ngành. Xác định rõ vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng và người đứng đầu trong việc tổ chức thực hiện Quy chế, tạo nên sự thống nhất trong công tác chỉ đạo. Với những kết quả đã đạt được cũng như những việc chưa làm được qua 6 năm thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII), Hội nghị lần này nhất định phải bàn và tìm ra được những giải pháp thiết thực để tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn nữa Quy chế Dân chủ ở cơ sở, nâng cao lòng tin vững chắc của nhân dân vào Đảng và chính quyền ta.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh
Để tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện và triệt để hơn nữa, tiền đề quyết định của tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong sự phát triển bền vững, cần phải đánh thức và bồi dưỡng những phẩm chất đang bị tổn thương đó, nhất là trong năm 2005 với nhiều sự kiện đặc biệt này
Viết theo yêu cầu bạn đọc: Đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước
Ngày 30 tháng 04 năm 2004
Sinh thời, Bác Hồ đã nói: "Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người". Ngày nay, non sông Việt Nam đang ngày một phát triển, đẩy lùi dần nguy cơ tụt hậu, sánh vai được với các nước trên thế giới, có thể nói điều đó một phần là nhờ công lao của giáo dục, nhờ sự nỗ lực học tập của thế hệ trẻ.
Trong sự thách thức cạnh tranh kinh tế, sự phát triển khoa học-công nghệ và hòa nhập kinh tế quốc tế, các nước trên thế giới đều nhận thấy: đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển, chống lại nguy cơ tụt hậu. Vì vậy, Chính phủ các nước đưa ra các chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong nước. Và ngược lại, chính bằng giáo dục đã khai thác tiềm năng trong nguồn nhân lực, thúc đẩy sản xuất phát triển. Ô-xtrây-li-a đưa ra khẩu hiệu: "Hãy cứu lấy nền kinh tế bằng giáo dục". Đảng ta trong quá trình đổi mới, qua kinh nghiệm thực tiễn đã nhận thức được con người là mục tiêu và động lực phát triển, coi giáo dục và đào tạo là "Quốc sách hàng đầu". Bất cứ nước nào, nền kinh tế hoạt động có mục tiêu lành mạnh và chân chính đều hướng vào đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến nhu cầu học tập, được phát triển tài năng, được làm việc. Ở phương diện này, rõ ràng giáo dục là mục tiêu của kinh tế. Đó cũng chính là một chu trình khép kín, tái sản xuất sức lao động với năng suất ngày một tăng cao hơn trước.
Điểm lại một số nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực và thế giới, hầu như nước nào cũng có chiến lược phát triển giáo dục, đề ra mục tiêu và đầu tư thỏa đáng. Thực chất, đó cũng là chương trình xây dựng nguồn nhân lực, phát triển con người-lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta xác định mục tiêu tổng quát cho giáo dục và đào tạo là: "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài"; phương châm là: "Học đi đôi với hành", để có những con người phát triển toàn diện".
Những giá trị con người trong mục tiêu giáo dục có những yêu cầu mới. Phổ biến hơn cả, các nước đang đề cập đến con người thông minh, sáng tạo, con người tự chủ. Đặc biệt, đang đưa ra quan niệm về con người hiện đại-con người công nghệ, với các đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, con người có khả năng phát minh, tạo được chuyển biến nhảy vọt về lực lượng sản xuất và năng suất lao động. Thứ hai, có khả năng ứng dụng những tiến bộ mới, làm tăng nhanh hiệu quả. Thứ ba, biết thích nghi kinh tế thị trường, năng động và lợi dụng được các tác động qua lại giữa thị trường với KH-CN để thúc đẩy KH-CN phát triển. Thứ tư, có tầm nhìn xa trông rộng, ít phải trả giá cho những sai lầm. Cuối cùng, con người hiện đại phải biết lưu giữ và hàm chứa những truyền thống dân tộc, kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại trong tính cách.
Như vậy, mục tiêu giáo dục, hệ thống giá trị mà các nước đề ra đều phù hợp với mục tiêu của giáo dục thế giới: Đào tạo con người trí tuệ (tri thức, thao tác tri thức, sáng tạo), lòng nhân ái, tính dân tộc, con người lao động (có tay nghề). Đó chính là tiền đề hướng tới một xã hội kinh tế tri thức, phát triển nền kinh tế tri thức.
Khi đánh giá về việc dạy và học ở nhà trường, người ta thường nói nhiều đến chất lượng thông qua tỷ lệ số điểm giỏi-khá-trung bình... mà học sinh đạt được. Thực tế, trong giáo dục, khái niệm "chất lượng" không thể tách rời với "hiệu quả", đó là sự tiết kiệm trong dạy học và khả năng thích ứng của người học, đáp ứng nhu cầu xã hội sau học tập, cung cấp nguồn nhân lực trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội của đất nước. Đây là cơ sở để đánh giá toàn diện quá trình giáo dục. Nhất là đối với bậc đào tạo đại học, điều này mang tính thiết chế Nhà nước, tính kinh tế-xã hội sâu sắc. Nhà trường có vai trò bồi dưỡng-đào tạo nguồn lực lao động có tay nghề vững, nguồn "chất xám"-tâm điểm cho sự phát triển khoa học, đổi mới công nghệ, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của đất nước. Chính nguồn lực này sẽ tạo nên nguồn sản phẩm dồi dào có chất lượng cao, thúc đẩy xã hội phát triển.
Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa, với mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ v