Giá trị tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và việc vận dụng ở nước ta trong tình hình hiện nay

Tóm tắt Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta giá trị tư tưởng sâu sắc về ngoại giao. Ngoại giao theo phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh là thêm bạn, bớt thù, mềm dẻo nhưng kiên quyết, chân thành mà vẫn giữ vững lập trường,“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công”, yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại. Trong tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp hiện nay, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định để phát triển đất nước.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 149 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và việc vận dụng ở nước ta trong tình hình hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 431| GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH VÀ VIỆC VẬN DỤNG Ở NƯỚC TA TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY ThS. Nguyễn Văn Mão Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Tóm tắt Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta giá trị tư tưởng sâu sắc về ngoại giao. Ngoại giao theo phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh là thêm bạn, bớt thù, mềm dẻo nhưng kiên quyết, chân thành mà vẫn giữ vững lập trường,“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công”, yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại. Trong tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp hiện nay, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định để phát triển đất nước. Từ khóa: Hồ Chí Minh, ngoại giao, bảo vệ độc lập dân tộc. 1. Giá trị tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh với trí tuệ siêu phàm, mang trong mình tình yêu nƣớc mãnh liệt, thấm nhuần những giá trị tinh hoa của dân tộc, trong suốt quá trình ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc đã tiếp thu nhiều giá trị tƣ tƣởng, tinh hoa văn hóa nhân loại, kinh nghiệm ngoại giao thực tế của các nƣớc để hình thành nên tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Ngƣời thấu hiểu sâu sắc bản chất con ngƣời Việt Nam gan dạ, bền bỉ, có lòng yêu nƣớc nồng nàn, sự sáng tạo trong phƣơng pháp dựng nƣớc và giữ nƣớc hàng ngàn năm của dân tộc. Từ đó, hình thành nên đặc trƣng ngoại giao Việt Nam “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công”, thể hiện tinh thần nhân đạo, đối xử nhân văn đối với những kẻ địch từng thất bại vì mình, coi trọng hòa hiếu với các nƣớc láng giềng nhƣng luôn ý thức cao trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và lãnh thổ thiêng liêng. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh tiếp thu tƣ tƣởng “tu thân, tề gia, trị quốc” của Khổng Tử, Chủ nghĩa Mác - Lênin, “chủ nghĩa Tam dân” của Tôn Trung Sơn, binh pháp Tôn Tử, trong đó tâm đắc đánh địch bằng mƣu và ngoại giao, chính sách “bất bạo động” của Gandhi ở Ấn Độ. Có thể khẳng định, truyền thống ngoại giao cùng văn hóa Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại |432 của dân tộc Việt Nam kết hợp với Chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với tiếp biến các giá trị văn hóa, tƣ tƣởng thế giới và nghiên cứu các bài học kinh nghiệm quốc tế qua các hoạt động thực tiễn là nguồn gốc hình thành tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Do nguồn gốc và quá trình hình thành thật đặc biệt nên nội dung, phƣơng pháp, phong cách ngoại giao của Hồ Chí Minh cũng không thể lẫn lộn với ai, đó là sự hòa quyện của những giá trị to lớn của dân tộc và tinh hoa của nhân loại. Trong nội dung tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần quyết tâm cao trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền của quốc gia, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong hoạt động cách mạng bền bỉ của Hồ Chí Minh. Bƣớc chân ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, Hồ Chí Minh đã tâm nguyện phải giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Ngƣời luôn đấu tranh mạnh mẽ kêu gọi phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo dân tộc Việt Nam đấu tranh giành chính quyền thắng lợi, trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn tuyên bố với toàn thể thế giới rằng “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” 1; tr.3 .Thực tế, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định chính sách ngoại giao có tính chất dân tộc, dân chủ của Việt Nam và cho dù phƣơng pháp có thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế thì nguyên tắc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là không thay đổi. Bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc là mục tiêu “bất biến” trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, để làm đƣợc điều này, theo Ngƣời phải kết hợp hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, có đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tự lực tự cƣờng gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem ngoại giao là một mặt trận quan trọng, muốn thắng lợi cần phải chuẩn bị chu đáo, phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ mặt trận ngoại giao với các mặt trận khác nhƣ chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện tốt mặt trận ngoại giao cần phải đào tạo đƣợc những con ngƣời giỏi, xây dựng đƣợc chiến lƣợc, sách lƣợc ngoại giao phù hợp dựa trên phân tích khoa học tình hình thế giới, khu vực và trong nƣớc. Ngoại giao của các nƣớc nhỏ nhƣ Việt Nam phải khôn khéo, cố gắng cân bằng mối quan hệ giữa các nƣớc lớn, tránh ngả hẳn về một nƣớc lớn, hoặc để nƣớc này lợi dụng chống lại nƣớc khác và rơi vào vòng xoáy “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 433| khó khăn không có lợi cho ta. Tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh luôn hƣớng đến hòa bình, chống chiến tranh, Ngƣời khẳng định “chúng tôi là một dân tộc ưu hòa bình, trọng quyền lợi và tự do của người khác” 1; tr.77 ; trong đó đặc biệt cố gắng xây dựng mối quan hệ hòa bình hữu nghị, hợp tác với các nƣớc láng giềng, thƣờng xuyên quan tâm đẩy mạnh mối quan hệ với các bạn bè truyền thống và các nƣớc trong hệ thống XHCN. Ngoài việc đẩy mạnh ngoại giao nhà nƣớc, cần phải đẩy mạnh ngoại giao Đảng, ngoại giao nhân dân, mở rộng hợp tác với cả những nƣớc có chế độ chính trị khác ta, đẩy mạnh hoạt động tại các diễn đàn quốc tế, nắm bắt thời cơ, tập hợp lực lƣợng, quyết tâm đấu tranh cho một thế giới hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về ngoại giao thấm đƣợm tính nhân văn, nhân đạo, trọng tình nghĩa, thể hiện sự tinh tế sâu sắc, giản dị, bao dung đã hình thành nên phƣơng pháp, phong cách “ngoại giao tâm công” đánh vào lòng đối phƣơng, thu phục lòng ngƣời bằng chính nghĩa, thuyết phục bằng đạo lý và lẽ phải. Ngoài ra, “ngoại giao tâm công” còn đƣợc dùng trong binh vận “để làm nhụt nhuệ khí của địch, gây hoang mang trong hàng ngũ đối phương, kết hợp với thắng lợi trên chiến trường buộc địch phải nghị hòa và rút quân về nước” 2; tr.217-218 . Để thực hiện tốt “ngoại giao tâm công”, mỗi khi quyết định các vấn đề đối ngoại, Hồ Chí Minh đều tìm hiểu kĩ, phân tích sâu sắc các yếu tố liên quan, các cá nhân, tổ chức cần tiếp xúc, kể cả những chi tiết nhỏ nhất để có đƣợc đối sách ngoại giao phù hợp, xây dựng ấn tƣợng tốt đẹp với đối phƣơng, làm lay động lòng ngƣời, tạo hiệu ứng tích cực có lợi cho mục đích ngoại giao của ta. Lịch sử cuộc đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ chính quyền, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nƣớc và bảo vệ chế độ XHCN đã chứng minh sự đúng đắn của nội dung, phong cách và phƣơng pháp “ngoại giao tâm công” của Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đƣờng lối ngoại giao đúng đắn của ta đã giúp nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới hiểu đƣợc cuộc đấu tranh chính nghĩa, từ đó nhận đƣợc sự ủng hộ và cổ vũ to lớn, ngay cả nhân dân Pháp, Mỹ đã tổ chức những phong trào phản chiến rầm rộ để ủng hộ Việt Nam. Ngoại giao theo phong cách Hồ Chí Minh làm toát lên tinh thần yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam, việc chúng ta quyết tâm đàm phán hòa bình với Pháp sau cách mạng tháng 8/1945 và đàm phán tại Hội nghị Giơnevơ (1954), đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Pari (1968 - 1973) để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình đã khẳng định chắc chắn điều đó. Thực hiện tốt tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc, chúng ta đã xây dựng đƣợc mối quan hệ tốt đẹp với các nƣớc láng giềng nhƣ Trung Quốc, Lào, Campuchia, tập hợp đƣợc những lực lƣợng yêu chuộng hòa bình trên Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại |434 thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam. Bên cạnh đó, cố gắng cân bằng mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc khi hai nƣớc này xảy ra bất hòa, giúp chúng ta có thêm sức mạnh và sự ủng hộ cần thiết để hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nƣớc. Tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh trở thành kim chỉ nam cho các hoạt động đối ngoại của Đảng, nhà nƣớc và nhân dân ta, là nhân tố quyết định đem đến những thắng lợi quan trọng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN. 2. Vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong tình hiện nay Độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc là vấn đề thiêng liêng của mỗi quốc gia, độc lập dân tộc thể hiện quyền tự quyết của quốc gia, không có sự phụ thuộc hoặc bị bất kỳ quốc gia nào chi phối, đảm bảo sự tự chủ, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Để bảo vệ đƣợc độc lập dân tộc, mỗi quốc gia phải phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó ngoại giao là mặt trận rất quan trọng. Lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh, góp phần làm nên những thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam. Tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay, xu thế chính là hòa bình, hữu nghị, hợp tác, nhƣng bên cạnh đó mâu thuẫn sắc tộc, dân tộc, nội chiến, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tranh chấp phạm vi ảnh hƣởng giữa các nƣớc lớn vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Chiến lƣợc xoay trục của Mỹ, chuyển trọng tâm thiết lập ảnh hƣởng sang khu vực châu Á và sự trỗi dậy của Trung Quốc với việc đòi hỏi chủ quyền phi lý tại Biển Đông đang làm cho khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng và sự tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông trở nên phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy hiểm, khó lƣờng. Sự tác động bằng nhiều biện pháp của các nƣớc lớn đối với các mối quan hệ quốc tế đang trở nên rõ ràng, quyết liệt, gây nhiều khó khăn cho các nƣớc nhỏ trong việc lựa chọn đƣờng lối ngoại giao phù hợp, thậm chí gây nên những dấu hiệu rạn nứt giữa các quốc gia từng là đồng minh chiến lƣợc, làm nảy sinh thái độ khác nhau khi đi đến những vấn đề thống nhất trong các tổ chức mà mình cùng tham gia. Bên cạnh đó, với sự phát triển nhƣ vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ tác động đến tất cả các nƣớc làm cho các mối quan hệ quốc tế trở nên phức tạp, đan xen, chồng chéo, trong đó mối quan hệ giữa một số nƣớc vừa xem nhau là đối tác, vừa là đối tƣợng, thậm chí là đối thủ. Trong xu thế đó, hội nhập, hợp tác để vƣợt qua lạc hậu, phát huy nội lực để vƣợt qua khó khăn, thách thức trở thành vấn đề cấp “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 435| thiết của tất cả các quốc gia dân tộc, đặc biệt đối với các nƣớc nhỏ, kinh tế còn khó khăn, khoa học - công nghệ còn lạc hậu nhƣ Việt Nam. Trƣớc tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp, nhiệm vụ đối ngoại đang gánh trọng trách hết sức nặng nề trong việc đƣa Việt Nam hội nhập thành công với thế giới, giúp đất nƣớc vƣợt qua khó khăn, giữ vững độc lập và chủ quyền quốc gia. Do đó, việc học tập, nghiên cứu thấu đáo, vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, trong đó có tƣ tƣởng ngoại giao là vấn đề rất quan trọng. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991) khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng” 3; tr.127 là quyết định đúng đắn, trở thành động lực để chúng ta nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ tƣ tƣởng ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng, trong văn kiện đã khẳng định việc học tập, nghiên cứu tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hết sức quan trọng, cấp thiết trong việc xây dựng, thực hiện đƣờng lối, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nƣớc ta trong sự nghiệp xây dựng XHCN và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đó, Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII (2016) trong văn kiện khẳng định quyết tâm “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” 4; tr.79 . Có thể khẳng định, trong thời gian qua, chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc, toàn diện tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh, từ đó góp phần tham mƣu, định hƣớng chiến lƣợc, sách lƣợc ngoại giao của Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, tình hình thế giới và trong nƣớc luôn có những tiến triển không ngừng, thậm chí có những vấn đề diễn ra hết sức nhanh chóng, do đó việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh, vận dụng linh hoạt là vô cùng cần thiết trong tình hình hiện nay. Thứ nhất, để hoạt động đối ngoại phát huy hiệu quả tốt, việc phát huy nội lực, tinh thần và sức mạnh của dân tộc trở thành yếu tố quan trọng quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” 1; tr.147 và muốn ngƣời giúp ta, trƣớc hết mình phải tự giúp lấy mình. Điều đó khẳng định, thực lực chính là cơ sở quyết định sự thành công, bền vững trong hợp tác, đoàn kết quốc tế, do đó cần phải xây dựng sức mạnh nội lực lớn mạnh trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học - công nghệ, thực hiện tốt điều này, sẽ là bệ phóng giúp Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại |436 mặt trận ngoại giao có thêm sức mạnh và động lực để thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ của mình. Thực tế, tình hình nƣớc ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt đƣợc qua 30 năm đổi mới, chúng ta đang đứng trƣớc nhiều khó khăn, thử thách, kinh tế có phát triển nhƣng chƣa thật sự bền vững, công nghệ lạc hậu, nhiều bất cập trong quản lý, một số tập đoàn kinh tế nhà nƣớc làm ăn kém hiệu quả, tham ô, lãnh phí gây thất thoát lớn tài sản quốc gia, nợ công gia tăng, ô nhiễm nguồn nƣớc, môi trƣờng nhiều nơi nghiêm trọng ảnh hƣởng đến sức khỏe và đời sống nhân dân. Những khó khăn này, ảnh hƣởng không nhỏ đến sức mạnh, uy lực của ngoại giao Việt Nam. Do vậy, chúng ta phải xây dựng đƣợc những chủ trƣơng, chính sách đúng đắn, phát triển mạnh kinh tế gắn với đảm bảo an sinh xã hội, mở cửa, hội nhập hợp lý tránh rơi vào tình trạng bị cô lập hoặc bị hòa tan, kiên quyết chống tham nhũng, có chính sách hợp lý để bảo vệ môi trƣờng, đặc biệt là môi trƣờng biển, xây dựng vững chắc lòng tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền, phát huy tinh thần, trí tuệ của nhân dân, quyết tâm xây dựng đất nƣớc giàu mạnh và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Tạo cơ chế hiệu quả, phối hợp nhịp nhàng giữa ngoại giao với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hóa. Thực hiện đƣợc điều đó, chúng ta sẽ có tâm thế vững chắc khi tiến hành hội nhập sâu rộng với thế giới, “hòa nhập nhưng không hòa tan” giúp đất nƣớc tiếp tục phát triển và bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. Thứ hai, vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh trên cơ sở nghiên cứu nắm vững quy luật, đặc điểm của thời đại, có những dự đoán khoa học để hoạch định chiến lƣợc ngoại giao đúng đắn, nắm chắc thời cơ. Lãnh tụ Lênin đã khẳng định “chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ” 5; tr.174 . Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời hiểu biết sâu sắc đặc điểm của thời đại, dã tâm của chủ nghĩa đế quốc, các quy luật trong quan hệ quốc tế, giúp Hồ Chí Minh có cái nhìn toàn diện, thấu đáo về các mối quan hệ quốc tế, từ đó hoạch định đƣờng lối đối ngoại phù hợp, nắm chắc thời cơ để đem đến những thắng lợi cho dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Thực tế trong thời gian qua, bên cạnh những mặt tích cực trong hoạt động đối ngoại, vẫn tồn tại không ít những hạn chế, việc nghiên cứu, dự báo tình hình quốc tế đôi lúc còn chậm, việc tham mƣu trong hoạch định chính sách đối ngoại vẫn còn hạn chế, điều đó gây trở ngại cho chúng ta trong việc nắm bắt thời cơ, đẩy nhanh hội nhập để thu hẹp khoảng cách với các nƣớc và đôi lúc lúng túng trong giải quyết các vấn đề khó liên quan đến việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hiện nay, để góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thiết nghĩ chúng ta “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 437| phải đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, vận dụng tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh gắn chặt với nghiên cứu, phân tích tình hình thế giới thấu đáo để có những dự báo kịp thời, tham mƣu hiệu quả cho việc xây dựng đƣờng lối đối ngoại, sách lƣợc ngoại giao phù hợp, góp phần tạo bƣớc đột phá, đẩy mạnh hội nhập quốc tế kết hợp chặt chẽ với giữ vững quốc phòng, an ninh, cảnh giác với những âm mƣu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trong tình hình hiện nay. Thứ ba, trong giai đoạn một trật tự thế giới mới đang định hình, mối quan hệ quốc tế chồng chéo, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trở nên phức tạp, quan hệ giữa các quốc gia biến đổi khó lƣờng, đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là thêm bạn, bớt thù, mềm dẻo nhƣng kiên quyết, chân thành mà vẫn giữ vững lập trƣờng,“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “ngoại giao tâm công” yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” 6; tr.256 . Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII đã quán triệt “nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, bình thường hóa, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” 7; tr.34-35 . Thực hiện tốt điều này, Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Từng bƣớc xây dựng lòng tin, nâng tầm mối quan hệ đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau và hợp tác thực chất. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc trên lĩnh vực đối ngoại, phải thẳng thắn nhìn nhận chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, tình hình tranh chấp ở Biển Đông đang diễn biến phức tạp, Việt Nam là bên có tranh chấp ở đây, trong khi chúng ta là nƣớc nhỏ, tiềm lực kinh tế, quốc phòng còn hạn chế, đòi hỏi mặt trận ngoại giao phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt nội dung, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cần vận dụng sáng tạo phƣơng pháp “ngoại giao tâm công”, dùng nhân tâm đánh vào lòng ngƣời, vừa khơi dậy lòng tự hào của đối phƣơng, vừa sử dụng lý lẽ sắc bén nhƣng chuyển tải bằng phƣơng pháp linh hoạt, giản dị, gắn với đạo lý, lẽ phải để tấn công vào lòng ngƣời nhằm thức tỉnh lƣơng tri. Bởi thực tế, các dân tộc trên thế giới này dù màu da, văn hóa, lịch sử có khác nhau nhƣng đều có những đặc điểm chung là hƣớng thiện và có chung những giá trị nhân văn cơ bản. Qua đó, chúng ta cố gắng gác lại những bất động trong khả năng, điều kiện có thể, tìm kiếm sự tƣơng đồng, khơi dậy và tăng cƣờng sự đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nƣớc, các tổ chức yêu chuộng hòa bình đối với Việt Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại |438 Nam. Mặt khác, ngoại giao tâm công và ngoại g