Giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm

Tóm tắt. Hệ thống các trường sư phạm làm một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống giáo dục quốc dân (theo Luật giáo dục 2005), bởi công tác đào tạo giáo viên nhằm phục vụ cho giáo dục phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Trường sư phạm có hai nhiệm vụ chính là đào tạo giáo viên và nghiên cứu khoa học. Hoạt động nghiên cứu khoa học luôn đòi hỏi có sự liên kết giữa các lĩnh vực khoa học, hoặc liên kết giữa các nhà khoa học để cùng giải quyết những vấn đề của thực tiễn nảy sinh. Bài báo đưa ra các giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm bao gồm: Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, trong đó tập trung nghiên cứu khoa học giáo dục ở các trường sư phạm; Thu hút tối đa các nguồn lực của từng trường vào thực hiện nhiệm vụ chung của ngành; Quản lí nguồn thông tin dữ liệu chung; Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho đội ngũ giảng viên của các trường sư phạm và Xây dựng mạng lưới liên kết giữa các trường sư phạm.

pdf13 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 161 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 154-166 This paper is available online at GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG LIÊN KẾT NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM Hồ Lam Hồng Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Hệ thống các trường sư phạm làm một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống giáo dục quốc dân (theo Luật giáo dục 2005), bởi công tác đào tạo giáo viên nhằm phục vụ cho giáo dục phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Trường sư phạm có hai nhiệm vụ chính là đào tạo giáo viên và nghiên cứu khoa học. Hoạt động nghiên cứu khoa học luôn đòi hỏi có sự liên kết giữa các lĩnh vực khoa học, hoặc liên kết giữa các nhà khoa học để cùng giải quyết những vấn đề của thực tiễn nảy sinh. Bài báo đưa ra các giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm bao gồm: Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, trong đó tập trung nghiên cứu khoa học giáo dục ở các trường sư phạm; Thu hút tối đa các nguồn lực của từng trường vào thực hiện nhiệm vụ chung của ngành; Quản lí nguồn thông tin dữ liệu chung; Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho đội ngũ giảng viên của các trường sư phạm và Xây dựng mạng lưới liên kết giữa các trường sư phạm. Từ khóa: Liên kết nghiên cứu khoa học, liên kết các trường sư phạm, các trường sư phạm. 1. Mở đầu Liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm được hiểu là sự kết hợp, hợp tác hay sự kết nối giữa các nhà khoa học của các trường sư phạm với nhau cùng tham gia hoạt động nghiên cứu. Việc liên kết trong nghiên cứu được xuất phát từ sự cần thiết phải liên kết các lĩnh vực khoa học với nhau để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Sự khác biệt của liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm là mục đích nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu của đào tạo giáo viên. Do đó liên kết các lĩnh vực khoa học với nhau, trong đó có liên kết khoa học cơ bản với khoa học giáo dục nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong đào tạo giáo viên. Liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm thúc đẩy quá trình phát triển của ngành sư phạm nói riêng, khoa học giáo dục nói chung. Tuy nhận thấy sự cần thiết Tác giả liên lạc: Hồ Lam Hồng, địa chỉ e-mail: holamhong@yahoo.com 154 Giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm phải liên kết nghiên cứu khoa học, song thực tiễn liên kết giữa các trường cũng như cơ chế liên kết như thế nào để có hiệu quả thì lại chưa được ứng dụng trong thực tiễn.Trên tinh thần đó tác giả đã nghiên cứu và đưa ra Giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Hệ thống các trường sư phạm trong hệ thống giáo dục quốc dân Ngành sư phạm được thành lập theo Sắc lệnh số 194 ngày 08/10/1946 của Chủ tịch Nước. Trong suốt chiều dài lịch sử, ngành sư phạm đã đạt được những thành tích nổi bật nhất là các trường sư phạm đã đào tạo cho đất nước một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục đông đảo gồm hơn hai triệu người, trong đó có hơn một triệu người đang làm việc. Đội ngũ này cơ bản đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Hiện nay, trong 133 cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục trên cả nước, có 14 trường đại học sư phạm và 39 trường cao đẳng sư phạm. Ở các trường đại học sư phạm hiện có 4.490 giảng viên; trong đó: 5,2% có chức danh giáo sư, phó giáo sư; 13,7% có trình độ tiến sĩ, tiến sĩ khoa học và 48,7% có trình độ thạc sĩ. Ở các trường cao đẳng sư phạm hiện có 3.543 giảng viên; trong đó: 0,07% có chức danh giáo sư, phó giáo sư; 0,93% có trình độ tiến sĩ và 36,89% có trình độ thạc sĩ. Song trong thực tế, các trường sư phạm vẫn còn một số bất cập nhất định trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển trường, trong xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, tổ chức thực hiện các hoạt động nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế. Đặc biệt, các trường sư phạm còn chưa chú trọng đúng mức việc rèn luyện lí tưởng, phẩm chất đạo đức của sinh viên và việc đào tạo nghiệp vụ sư phạm; nội dung đào tạo sư phạm chưa đáp ứng yêu cầu của giáo dục phổ thông, giáo dục mầm non; chậm đổi mới phương pháp đào tạo và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên; kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục còn hạn chế. - Tính sư phạm trong các cơ sở đào tạo giáo viên chưa được thể hiện rõ. Trường sư phạm là nơi thực hiện mục tiêu kép: đào tạo nguồn nhân lực để thực hiện việc giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực tiếp theo cho đất nước. Do đó đào tạo cần tính thực hành nghề cao. Song chương trình đào tạo giáo viên vẫn còn nặng về cung cấp lí thuyết, hàn lâm hơn là định hướng vào hình thành năng lực nghề nghiệp, kĩ năng thực hành giảng dạy và giáo dục học sinh. - Tỉ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư, có trình độ tiến sĩ của các trường đại học sư phạm và cao đẳng sư phạm đều thấp hơn tỉ lệ bình quân chung của các trường đại học, cao đẳng trong toàn hệ thống giáo dục đại học cả nước. - Đội ngũ giảng viên sư phạm phải dành quá nhiều thời gian cho việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, thời gian dành cho nghiên cứu khoa học cũng như học tập cá nhân để nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức mới còn hạn chế. - Về tổng thể, quy hoạch xây dựng mạng lưới các trường sư phạm và phát triển đội 155 Hồ Lam Hồng ngũ giảng viên chưa thật hợp lí (số lượng, chất lượng và cơ cấu). Có giai đoạn, việc tuyển chọn biên chế bị chậm, nên hẫng hụt thế hệ là điều tất yếu. Tính chuyên nghiệp trong định hướng đào tạo bồi dưỡng phát triển đội ngũ giảng viên sư phạm chưa rõ. - Trước đây, kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô đào tạo. Nay đã có nhiều thay đổi, nhưng đầu tư chưa thực sự mang tính hiệu quả. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định: "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lí giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí là khâu then chốt". Định hướng đó đã đặt ngành sư phạm và các trường sư phạm trước những cơ hội và thách thức mới buộc ngành giáo dục đã phê duyệt “Chương trình phát triển ngành sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2011 đến năm 2020” theo quyết định số 6290/QĐ-BGDĐT ngày 13/12/2011 với mục tiêu phát triển ngành sư phạm Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đủ năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục của hệ thống giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2011-2020. Xây dựng các trường đại học sư phạm trở thành các trung tâm sáng tạo, đổi mới căn bản và toàn diện của ngành sư phạm cả nước. Tăng cường sự gắn kết giữa hệ thống các trường, khoa sư phạm với hệ thống giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và các cấp quản lí giáo dục để bảo đảm sự đồng bộ trong việc xây dựng và triển khai thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới và chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015. * Xét theo quan điểm hệ thống: Hình 1. Hệ thống các trường sư phạm trong cả nước 156 Giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm Hệ thống các trường sư phạm được cấu thành bởi tất cả các cơ sở đào tạo giáo viên, bao gồm: các trường sư phạm, các khoa sư phạm của các trường đa ngành, các trường, học viện quản lí giáo dục từ trung ương đến các địa phương và được cấu trúc theo tầng bậc như được mô tả trong Hình 1. Từ sơ đồ trên Hình1 có thể dễ dàng nhận thấy, hệ thống lớn có mối quan hệ tương tác với các thành tố của hệ thống theo nguyên tắc thứ - bậc: Hệ lớn, hệ nhỏ hơn theo các thứ bậc. Trong đó các hệ con vừa là đơn vị cấu trúc của hệ lớn, vừa là hệ lớn của những hệ con bậc dưới. Dù là cấp độ nào thì mỗi hệ con vừa là đơn vị cấu trúc, vừa là đơn vị chức năng. Theo nguyên tắc đó, hệ thống sư phạm cũng được thiết kế thành các hệ con theo các thứ bậc khác nhau. Đó cũng là nguyên tắc xác lập và phân loại các hệ con cấu thành hệ thống các trường sư phạm. * Xét theo quan hệ vùng lãnh thổ: Quan hệ vùng lãnh thổ không chỉ phản ánh quan hệ không gian địa lí, mà còn phản ánh quan hệ đặc điểm văn hoá, phát triển kinh tế - xã hội. Với các quan hệ này, hệ thống sư phạm có cấu trúc bao gồm: - Các trường sư phạm thuộc các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ; - Các trường sư phạm thuộc các tỉnh vùng Tây Bắc; - Các trường sư phạm thuộc tỉnh vùng núi Việt Bắc - Đông Bắc Bộ; - Các trường sư phạm thuộc tỉnh Bắc Trung Bộ; - Các trường sư phạm thuộc tỉnh Trung Trung Bộ; - Các trường sư phạm thuộc tỉnh Nam Trung Bộ; - Các trường sư phạm thuộc tỉnh Đông Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh; - Các trường sư phạm thuộc tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; - Các trường sư phạm thuộc tỉnh Tây Nguyên. Với đặc điểm vùng lãnh thổ này, cho phép các trường sư phạm thực hiện chức năng phù hợp với đặc điểm vùng miền, đặc biệt văn hóa địa phương, đóng góp được nhiều kết quả về nghiên cứu nhu cầu bồi dưỡng, đào tạo; về biên soạn tài liệu bồi dưỡng; về tổ chức bồi dưỡng; hỗ trợ nguồn nhân lực; về biên soạn các chuyên đề, môn học tự chọn trong chương trình giáo dục các cấp học,... * Xét theo phân cấp đào tạo GV theo các trình độ khác nhau: Hình 2. Hệ thống các trường sư phạm theo trình độ Phân cấp trình độ đào tạo này giúp tổ chức thực hiện các hoạt động đào tạo liên thông trên cơ sở phát triển chương trình, biên soạn giáo trình, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng 157 Hồ Lam Hồng đội ngũ cán bộ giảng dạy, tổ chức nghiên cứu khoa học về những vấn đề liên quan để sự phát triển trình độ đào tạo, về nghiên cứu ứng dụng những thành tựu về khoa học giáo dục, tổ chức chia sẻ thông tin khoa học, v.v... * Xét theo quan hệ các nhóm ngành đào tạo: Khi thiết lập cấu trúc này sẽ tạo điều kiện cho các hệ con theo nhóm ngành giải quyết được nhiều vấn đề cho ngành liên quan đến phát triển chương trình đào tạo giáo viên phù hợp với phát triển chương trình giáo dục các cấp học, liên kết biên soạn giáo trình, sách giáo khoa chuyên ngành cho các cấp học, chia sẻ các nguồn lực, kinh nghiệm đào tạo, trao đổi học thuật cho từng lĩnh vực chuyên sâu, tổ chức các nghiên cứu về khoa học chuyên ngành, khoa học giáo dục đào tạo chuyên ngành, v.v. Cấu trúc hệ thống theo quan hệ này có thể mô tả như Hình 3. Hình 3. Hệ thống các trường sư phạm theo nhóm ngành đào tạo * Xét theo phân cấp quản lí: Một số trường sư phạm trực thuộc Bộ GD & ĐT, trực thuộc tỉnh, trực thuộc trường quốc gia, trực thuộc trường vùng. Cơ cấu tổ chức quản lí theo quan hệ này sẽ thuận lợi trong việc phối hợp nguồn lực đa dạng giữa các trường sư phạm, đặc biệt sự hỗ trợ chia sẻ nguồn lực giữa các cơ sở lớn do Bộ GD & ĐT quản lí, cho các cơ sở do địa phương quản lí. Quan hệ này có ưu điểm tạo được sự quan tâm trong quản lí nhà nước và định hướng trọng điểm rõ ràng, thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa các trường sư phạm với nhà trường phổ thông, các cấp học, đặc biệt trong các cuộc đổi mới, cải cách giáo dục. Đặc biệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khóa 8 đã quyết nghị xây dựng một số trường ĐHSP trọng điểm với chức năng đầu tàu, hỗ trợ thúc đẩy cả hệ thống SP nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng GV và CBQLGD các cấp học, ngành học. Việc tách và xây dựng hai trường ĐHSP trọng điểm quốc gia là kết quả của chủ trương phát triển hệ thống sư phạm - hệ thống có tổ chức, có chức năng và cơ chế phù hợp với chiến lược phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ GV của đất nước. Trong xu thế dân chủ và bình đẳng hiện nay, các trường sư phạm trong cả nước (cho dù là trường trung ương hay địa phương; trường cao đẳng hay đại học; viện hay học viện,...) đều có chức năng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Song sự khác biệt về mặt quản lí hành chính sẽ liên quan đến nguồn kinh phí cho các trường tồn tại và phát triển. Nhưng mỗi một trường sư phạm có vị thế riêng và có khả năng đáp ứng nhu cầu của vùng miền, văn hóa địa phương. 158 Giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm 2.2. Sự cần thiết phải liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm * Định hướng phát triển hệ thống giáo dục đại học Theo quy định của luật Giáo dục đại học, bắt đầu từ năm nay các trường đại học sẽ được phân thành 3 tầng gồm: đại học nghiên cứu, ứng dụng, thực hành. Tuy nhiên, để đạt được điều này các trường đại học cần có định hướng rõ ràng về chiến lược phát triển của trường mình, nhất là các trường đại học có định hướng phát triển thành trường đại học nghiên cứu. Nhưng điều này không phải trường đại học nào cũng có thể đáp ứng được ngay. Theo định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến năm 2015 hình thành nhóm các trường đại học định hướng nghiên cứu, đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng, các trường cao đẳng cộng đồng. Việc phát triển các trường đại học nghiên cứu chính là nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu mới của xã hội và xu hướng hội nhập quốc tế. Như vậy, việc hình thành quan niệm, cũng như tư duy về nhà trường đại học theo hướng nghiên cứu, trong đó có hệ thống các trường sư phạm, sẽ xuyên suốt đến định hướng phát triển nhà trường, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, tuyển sinh, quá trình đào tạo cho đến kiểm định chất lượng đào tạo. * Mục tiêu phát triển ngành sư phạm “Chương trình phát triển ngành sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2011 đến năm 2020 đã xác định rõ: Mục tiêu phát triển ngành sư phạm Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đủ năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục của hệ thống giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2011 - 2020. Xây dựng các trường đại học sư phạm trở thành các trung tâm sáng tạo, đổi mới căn bản và toàn diện của ngành sư phạm cả nước. Tăng cường sự gắn kết giữa hệ thống các trường, khoa sư phạm với hệ thống giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và các cấp quản lí giáo dục để bảo đảm sự đồng bộ trong việc xây dựng và triển khai thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới và chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015”. Như vậy, các trường sư phạm cần đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng hình thành năng lực cho người học (năng lực làm việc độc lập, năng lực tự học tự nghiên cứu để có thể học tập suốt đời, năng lực thích ứng nhanh với môi trường thay đổi theo hướng phát triển. . . ) nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông, tránh việc đào tạo nằm ngoài hay đi sau giáo dục phổ thông như những năm vừa qua. Nếu đội ngũ giáo viên phổ thông được hình thành năng lực học tập theo hướng nghiên cứu thì họ có thể dần truyền được phương pháp học theo hướng nghiên cứu cho chính thế hệ mai sau, các học sinh ở các trường phổ thông. Mục tiêu này cũng hướng đến việc xây dựng và sự tăng cường liên kết hệ thống các trường sư phạm gắn với hệ thống các cơ sở giáo dục (giáo dục từ mầm non đến hết trung học phổ thông) trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học: các trường phổ thông đều là cơ sở học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên sư phạm. Mục tiêu này hướng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đối tượng học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 159 Hồ Lam Hồng * Nhiệm vụ đối với giảng viên sư phạm gắn việc giảng dạy với nghiên cứu khoa học Theo thông tư liên tịch giữa Bộ Nội vụ và Bộ GD & ĐT số 06/2011/TTLT-BNV- BGDĐT ngày 06/06/2011 có quy định điều 5 về nhiệm vụ giảng dạy và điều 6. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ. Như vậy, mỗi cán bộ giảng viên phải thực hiện hai nhiệm vụ với định mức thời gian làm việc hàng năm theo từng nhiệm vụ, phù hợp với mỗi chức danh (Bảng 1). Bảng 1. Định mức thời gian làm việc hàng năm của cán bộ giảng viên Nhiệm vụ/Chức danh Giảngdạy Nghiên cứu Hoạt động chuyên môn và các nhiệm vụ khác Tổng số giờ/năm Giảng viên 900 400 460 1.760 Giảng viên chính 900 500 360 1.760 Giảng viên cao cấp 900 600 260 1.760 (Đơn vị tính: giờ) Hoạt động nghiên cứu khoa học gắn với hoạt động giảng dạy và nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy. Tùy theo mức độ chức danh, tỉ lệ quy định nhiệm vụ nghiên cứu khoa học có sự khác biệt. Đối với giảng viên bậc cao thì đòi hỏi nhiệm vụ nghiên cứu khoa học phải cao hơn so với công tác giảng dạy: số giờ giảng dạy được quy đổi sang giờ nghiên cứu khoa học. Mặt khác, các giảng viên bậc cao phải đảm nhận những trọng trách trong công tác nghiên cứu khoa học (chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước, chủ nhiệm chương trình, chủ nhiệm đề tài cấp bộ hoặc có trách nhiệm hướng dẫn đội ngũ cán bộ trẻ, hướng dẫn nghiên cứu sinh làm những đề tài nghiên cứu,. . . ). Những điều này được các cơ sở giáo dục đại học nói chung, hệ thống các trường sư phạm nói riêng cụ thể hóa trong nhiệm vụ đối với từng chức danh, đưa vào tiêu chuẩn đánh giá và xếp loại danh hiệu thi đua hàng năm đối với giảng viên. * Đổi mới phương pháp dạy học trong hệ thống đào tạo gắn với đổi mới đào tạo theo tín chỉ Đổi mới phương pháp dạy học trở nên cấp bách hơn bao giờ hết đối với các trường đại học nói chung, các trường sư phạm nói riêng khi thực hiện việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Như vậy việc đổi mới phương pháp dạy học ở bậc đại học là một đòi hỏi của thực tế khách quan đáp ứng được yêu cầu về phát triển kinh tế, xã hội và nguồn nhân lực và không nhằm ngoài mục đích nâng cao chất lượng đào tạo. Theo xu hướng hiện đại: Kiến thức rất đa dạng và thay đổi nhanh theo thời gian -> Giảng dạy là khai thác và tận dụng nội lực của sinh viên để họ sẽ tự học suốt đời -> Tăng cường những môn học rèn luyện tư duy. Như vậy, cần thiết dạy cho sinh viên biết cách học: học theo hướng tự học, tự nghiên cứu để tự hình thành vốn kiến thức cho cá nhân. Như vậy với xu hướng mới về phương pháp dạy học theo quan niệm “học sinh là trung tâm của hệ thống giáo dục” đã làm thay đổi tiêu chí và cách thức giảng dạy của giảng viên sư phạm và phương pháp học tập của sinh viên, đó là: 160 Giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học trong hệ thống các trường sư phạm - Việc dạy cách học, học cách học để tạo thói quen, niềm say mê và khả năng học suốt đời là nội dung bao quát của việc dạy và học ở Đại Học. - Lấy người học làm trung tâm (learner centered) để phát huy tính chủ động của người học. - Công nghệ thông tin và các phương tiện giảng dạy hiện đại có thể giúp con người chọn nhập và xử lí thông tin nhanh chóng để biến thành tri thức của chính mình. Vậy đổi mới phương pháp dạy học ở đại học theo đào tạo tín chỉ buộc người học phải chủ động và sáng tạo, tự học tự nghiên cứu trong học tập với quan niệm “học cho chính mình” và học tập suốt đời. Do đó ngay trong quá trình đào tạo ở trường sư phạm, sinh viên được học theo cách nghiên cứu và tham gia thực hiện các vấn đề nghiên cứu. Cho đến nay, đổi mới phương pháp dạy học đang được thực hiện nhanh và mạnh trong hệ thống giáo dục phổ thông với quan điểm hình thành năng lực cho học sinh. Do đó đổi mới phương pháp dạy học ở các trường sư phạm là điều tất yếu không thể tránh khỏi. 2.3. Các mô hình liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm Liên kết trong nghiên cứu khoa học được hiểu là sự kết hợp, liên thông và hợp tác của các bên vào thực hiện nhiệm vụ chung của nghiên cứu khoa học, trên cơ sở đảm bảo trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên. Liên thông, liên kết và hợp tác trong nghiên cứu khoa học được coi là đặc điểm mấu chốt thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Liên thông, liên kết trong nghiên cứu khoa học không những phát huy được tính chuyên môn hóa theo thế mạnh độc đáo của từng đơn vị; tạo điều kiện sử dụng hiệu quả các nguồn lực chung; tích hợp được sự giao thoa trí tuệ giữa liên ngành. Tuy nhiên việc tuyên truyền phổ biến các thông tin khoa học, kết quả nghiên cứu ít được trao đổi chia sẻ, chưa có kho dữ liệu để có thể truy cập và tìm hiểu khi cần thiết