TÓM TẮT
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng chính thể thống nhất và ổn định, củng cố tiềm lực đất nước về mọi mặt,
vương triều Lý nhận thấy sự cần thiết phải dựa vào Nho giáo và Nho học. Và như vậy, sau một thời gian
dài du nhập vào Việt Nam, đến những năm 80 của thế kỉ XI, nền giáo dục và khoa cử Nho học đã được
thừa nhận một cách chính thức qua các sự kiện như lập Văn miếu thờ Khổng tử và các vị thánh hiền
(năm 1070), tổ chức khoa thi (năm 1075), dựng Quốc tử giám (năm 1076). Giáo dục và khoa cử Nho
học được nhà Lý chủ động tiếp nhận là biểu hiện rõ rệt nhãn quan chính trị, kế sách trị nước của các vua
đầu triều Lý, đặc biệt là Lý Thánh Tông.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lý (Thế kỉ XI - XIII), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
3
GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ NHO HỌC THỜI LÝ (THẾ KỈ XI - XIII)
Education and examination of confucianism in Lý dynasty (XI-XIII century)
PGS.TS. Trần Thị Thái Hà
Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng chính thể thống nhất và ổn định, củng cố tiềm lực đất nước về mọi mặt,
vương triều Lý nhận thấy sự cần thiết phải dựa vào Nho giáo và Nho học. Và như vậy, sau một thời gian
dài du nhập vào Việt Nam, đến những năm 80 của thế kỉ XI, nền giáo dục và khoa cử Nho học đã được
thừa nhận một cách chính thức qua các sự kiện như lập Văn miếu thờ Khổng tử và các vị thánh hiền
(năm 1070), tổ chức khoa thi (năm 1075), dựng Quốc tử giám (năm 1076). Giáo dục và khoa cử Nho
học được nhà Lý chủ động tiếp nhận là biểu hiện rõ rệt nhãn quan chính trị, kế sách trị nước của các vua
đầu triều Lý, đặc biệt là Lý Thánh Tông.
Từ khoá: giáo dục Nho học, khoa cử Nho học, vương triều Lý
ABSTRACT
Due to the need to build and consolidate the centralized political monarchy, the Lý dynasty recognized
the need to rely on Confucianism. Therefore, after a long time of being introduced to Vietnam, by the
80s of the 11th century, the education and examination of Confucianism was officially recognized
through events such as establishing the Temple of Confucius and Sage Saints (in 1070), organizing
examinations (in 1075), building Quốc tử giám (in 1076). The education and examination of
Confucianism, actively received by the Lý dynasty, were a clear manifestation of the political vision and
the plan to rule the country of the Lý kings, especially Lý Thánh Tông.
Keywords: education of Confucianism, examination of Confucianism, Lý dynasty
1. Mở đầu
Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, trải
qua các triều Ngô-Đinh-Tiền Lê chính
quyền độc lập tự chủ ngày càng được củng
cố và phát triển. Tuy nhiên, phải từ thời Lý
trở đi thì nhà nước phong kiến dân tộc mới
dần được kiện toàn, phát triển về mọi mặt
và đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh
vực của đời sống đất nước. Góp một phần
quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể
chế chính trị của vương triều Lý phải kể
đến vai trò của giáo dục và khoa cử Nho
học. Các nguồn tư liệu còn lại đến nay cho
phép khẳng định: triều Lý khởi đầu cho
nền giáo dục và khoa cử Nho học ở Việt
Nam, đặt những viên gạch đầu tiên cho sự
phát triển của văn hoá Thăng Long và văn
hoá Đại Việt.
2. Nội dung
2.1. Tầm nhìn của nhà Lý trong
việc phát triển nền giáo dục và khoa cử
Nho học
Ngày 2 tháng 11 năm Kỉ Dậu, tức là
ngày 21 tháng 11 năm 1009, được thế lực
Email: hatranxbgd.72@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
4
Phật giáo đứng đầu là sư Vạn Hạnh cùng
các triều thần ủng hộ, Lý Công Uẩn lên
ngôi hoàng đế, lập ra vương triều Lý.
Là người sớm tiếp nhận sự giáo dưỡng
nơi cửa Phật, lại có được ngôi báu nhờ sự
hậu thuẫn của Phật giáo, có thể nói vị vua
đầu tiên của vương triều Lý - Lý Thái Tổ
là người sùng Phật, chịu ảnh hưởng sâu
sắc của tư tưởng Phật giáo. Mới lên ngôi,
ông đã cho dựng nhiều chùa, thuê thợ đúc
chuông lớn đặt ở các chùa, độ hàng ngàn
người làm tăng. Lê Văn Hưu ở thế kỉ XIII
nhận xét: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được
hai năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa
lập mà đã đựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức,
lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho
làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư”
(Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009,
tr. 298).
Các vua Lý kế nghiệp cũng không
ngừng cho xây dựng chùa chiền, đúc
chuông, tô tượng, cho người sang nhà
Tống xin kinh Phật. Tinh thần mộ Phật lan
rộng trong các tầng lớp xã hội, từ quý tộc,
quan lại đến giới bình dân. Chùa chiền
được xây dựng ở khắp nơi, đến mức như sử
cũ miêu tả: “Nhân dân quá nửa làm sư,
trong nước chỗ nào cũng có chùa” (Ngô Sĩ
Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 306).
Có thể thấy rằng, mọi hoạt động liên quan
đến Phật giáo đều được vương triều Lý
quan tâm và ủng hộ mạnh mẽ.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng
trong đời sống tôn giáo của đất nước, Phật
giáo còn thể hiện vị trí của mình trong hệ
thống chính trị đương thời. Bộ phận tăng
quan trong triều đình có từ thời Đinh, Tiền
Lê sang thời Lý, các nhà sư vẫn có tiếng
nói và tầm ảnh hưởng đến nhà vua. Sư Vạn
Hạnh, người đỡ đầu cho Lý Thái Tổ qua
đời năm 1026 (Ngô Sĩ Liên và các sử thần
triều Lê, 2009, tr. 314). Tuy nhiên, sự kiện
“Đặt các cấp bậc của tăng đạo” vào tháng
11 năm Mậu Thìn - 1028 (Ngô Sĩ Liên và
các sử thần triều Lê, 2009, tr. 211) đã cho
thấy bộ phận sư sãi, tăng quan trong triều
đình Lý khá đông đảo.
Phật giáo đầu thời Lý phát triển mạnh
như vậy, nhưng hơn 60 năm sau kể từ ngày
Lý Thái Tổ đăng quang, Lý Thánh Tông và
tiếp theo là Lý Nhân Tông lại quyết định
lựa chọn và từng bước sử dụng Nho giáo,
làm cho Nho học trở nên như một phương
tiện để tăng cường hiệu lực của bộ máy
quản lí nhà nước. Có thể lí giải hiện tượng
này bằng chính hiện thực xã hội Việt Nam
đầu thời Lý, cụ thể là:
Trước hết, sau khi mới lên ngôi, nhà
Lý phải mất nhiều thời gian để từng bước
ổn định đất nước về mọi mặt. Dần dần,
dựa trên chính thực tiễn phát triển của xã
hội Việt Nam khi đó, triều Lý đã từng
bước nhận thấy cần phải sử dụng một học
thuyết chính trị phù hợp để quản lí và phát
triển xã hội (Đỗ Hương Thảo, 2009, tr.
603), bởi lẽ Phật giáo không cung cấp cho
vương triều những điều cần thiết: bài học
để bảo vệ ngai vàng, xây dựng đất nước,
kiến lập nền chính trị hành chính, trị quốc
an dân” (Nguyễn Hải Kế, 2008, tr. 21) -
những điều mà Nho giáo có thể đem lại.
Nho giáo và Phật giáo đều được truyền
vào Việt Nam vào khoảng đầu Công
nguyên. Trong suốt thời Bắc thuộc, Nho
giáo tuy chưa chiếm được vị trí độc tôn
trong xã hội Việt Nam song ngay từ khi
đó, văn tự Hán đã được dùng để phục vụ
cho các công việc hành chính của chính
quyền đô hộ phương Bắc trong quá trình
thực hiện công cuộc cai trị, đồng hoá nhân
dân ta, là phương tiện chủ yếu để dịch
kinh, in sách Phật. Trong bối cảnh đó, dù
muốn hay không, người Việt dần tiếp thu
chữ Hán bằng nhiều con đường khác nhau,
TRẦN THỊ THÁI HÀ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
5
dần hình thành nên một tầng lớp trí thức
Nho học người Việt. Sau khi giành nền tự
chủ, nhà nước Ngô, Đinh, Tiền Lê rồi đến
Lý được thiết lập, tiếp tục coi chữ Hán là
văn tự chính thức, sử dụng trong các văn
bản hành chính. Việc học chữ Hán trở
thành một nhu cầu cấp thiết lúc này nhằm
để phục vụ giao tiếp, đối ngoại, soạn thảo
công văn, xử lí các vụ việc hành chính, ghi
chép sổ sách, thu thuế.v.v.
Mặc dù Nho giáo đã được các thế hệ
phong kiến đô hộ phương Bắc liên tục
truyền bá, đưa vào nước ta từ trước, nhưng
cho đến thế kỉ X, trật tự, kỉ cương, lễ nghi,
tập tục theo khuôn mẫu Nho giáo chưa có
tác dụng chi phối, ràng buộc xã hội. Xã hội
thời Đinh, Tiền Lê chưa có sự hiện diện
của bất kì bộ luật thành văn nào. Tục lệ,
tập quán được lưu truyền qua các thế hệ
được nhà nước và làng xã thực hiện khá
phổ biến. Sang thời Lý, cùng với việc sử
dụng quyền lực chính trị, tôn giáo, quân
đội, luật tục để điều tiết, chi phối và quản lí
các lực lượng trong xã hội, nhu cầu về xây
dựng nhà nước quân chủ trung ương tập
quyền mạnh trong điều kiện chính trị, xã
hội có nhiều thay đổi đòi hỏi những người
đứng đầu triều đình nhà Lý phải sớm chế
định ra luật pháp để giữ gìn kỉ cương, phép
nước. Việt sử lược cho biết: “Vua xuống
chiếu cho Trung thư sảnh san định sách
luật” (Việt sử lược, 2005, tr. 83). Năm
1042, bộ luật Hình thư của nhà Lý được
hoàn thành, “Sách làm xong, xuống chiếu
ban hành, dân lấy làm tiện” (Ngô Sĩ Liên
và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 330).
Trung thư sảnh hay Trung thư tỉnh
được khởi lập dưới triều Lý (năm 1028),
đứng đầu là viên Trung thư lệnh có nhiệm
vụ cùng nhà vua dự bàn các việc chính sự
quan trọng. Bên dưới gồm các chức Trung
thư Thị lang và Trung thư Xá nhân, Tả hữu
Gián nghị đại phu. Trung thư sảnh là một
trong các văn thư phòng, có trách nhiệm
tham mưu cố vấn và chuyên việc giấy tờ,
hành chính cho nhà vua. Cũng do tầm quan
trọng và đặc thù công việc, các quan Trung
thư sảnh phần đông là những người có
trình độ học vấn và am hiểu thuật trị nước.
Vào thời điểm biên soạn bộ luật Hình thư,
tuy nhà Lý chưa tổ chức khoa thi Nho học,
nhưng vai trò và dấu ấn của các trí thức
Nho trong bộ luật này là điều không thể
phủ nhận (Phạm Đức Anh, 2015, tr. 326).
Đây có lẽ cũng là một trong những nhân tố
tác động đến sự lựa chọn Nho học của nhà
Lý, khi bộ phận quan chức có học vấn
khẳng định vai trò không thể thay thế của
họ trong những công việc hệ trọng của
quốc gia.
Những biến đổi về kinh tế - xã hội
Việt Nam từ cuối thời Bắc thuộc và trong
suốt thế kỉ X, rồi tiếp tục trong thế kỉ XI
cũng là một nhân tố cần tính đến khi xem
xét bối cảnh xác lập nền giáo dục và thi cử
Nho học ở thời Lý. Sử liệu đã gián tiếp đề
cập đến sản nghiệp của một tầng lớp thổ
hào, cự tộc nổi bật trong xã hội Việt Nam
trước và trong thế kỉ X-XI. Đó có thể là tổ
tiên của các dòng họ Lý (Lý Bí) (Thái
Nguyên), họ Dương (Dương Đình Nghệ) ở
vùng Dương Xá (Thanh Hoá), họ Khúc ở
Hồng Châu, họ Phạm ở Nam Sách (Hải
Dương), họ Hồ ở Nghệ An, họ Đinh ở
Ninh Bình, họ Vũ ở Mộ Trạch (Hải
Dương), họ Lê ở Đông Sơn (Thanh Hoá),
họ Nguyễn ở Bắc Ninh, họ Kiều ở Vĩnh
Phúc. Những người này đồng thời là chủ
đất, chủ trang trại với cơ ngơi lớn. Theo bia
Càn ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh và
gia phả thì Bộc xạ Lê Lương có hơn 100
lẫm chứa thóc và hàng nghìn người cày,
nổi tiếng ở đất Đông Sơn (Thanh Hoá).
Con cháu của ông đến đầu thời Lý đứng ra
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
6
đòi lại ruộng đất xưa của ông cha (Ban
Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá, 2018, tr.
117). Hoặc như dòng họ La của La Quý
An, người đã từng bỏ tiền của xây dựng
hàng loạt chùa chiền ở vùng Tiên Du (Bắc
Ninh) (Trương Hữu Quýnh, 1984, tr. 54);
họ Dương ở vùng Dương Xá đã “nuôi ba
nghìn tráng sĩ làm nha binh” (Quốc sử
quán triều Nguyễn, 1998, tr. 220). Thêm
vào đó, chính sách ban cấp thực ấp được
nhà nước Đinh - Tiền Lê học hỏi từ
phương Bắc và áp dụng triệt để càng làm
gia tăng số lượng và quy mô sở hữu của
người được ban cấp. Như vậy, cho đến
cuối thế kỉ X - đầu thế kỉ XI, trong xã hội
Việt Nam đã hiện diện một tầng lớp đông
đảo các chủ đất lớn, chi phối và có ảnh
hưởng đến đời sống xã hội của một địa
phương nhất định. Thực tế trên cũng cho
thấy, lúc này trong xã hội Việt Nam, chế
độ sở hữu công cộng về ruộng đất của làng
xã cổ truyền không phải là chế độ sở hữu
duy nhất, thống trị. Do nhiều nguyên nhân
khác nhau mà chế độ sở hữu tư nhân về
ruộng đất tiếp tục phát triển. Sang thời Lý,
bộ phận ruộng đất tư nhân ngày càng lớn
mạnh. Đi cùng với sự phát triển của kinh tế
hàng hoá đương thời, các hiện tượng như
mua bán, cầm cố ruộng đất, kiện cáo, tranh
giành thừa kế... xung quanh vấn đề đất đai
xuất hiện ngày một nhiều trong xã hội.
Thực tế này đòi hỏi Nhà nước thời Lý phải
có biện pháp để điều tiết, quản lí và can
thiệp có hiệu quả nhằm bảo vệ nguồn lợi từ
tô thuế, ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp. Để làm được điều đó,
cần thiết phải xây dựng một thể chế đủ
mạnh với các cơ quan chuyên trách cùng
đội ngũ quan chức biết chữ Hán, am hiểu
rộng và có uy tín xã hội. Có thể phỏng
đoán rằng trong xã hội Việt Nam thời bấy
giờ số người biết chữ chắc chắn không
nhiều. Một thời gian dài trước thế kỉ X và
ngay ở thế kỉ XI, Phật giáo đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động giáo dục, “Bấy
giờ nhà chùa là nhà trường, nhà sư là nhà
giáo” (Nguyễn Khắc Thuần, 1998, tr. 53).
Vì thế, tuy chữ Hán đã trở thành chữ viết
chính thức nhưng số người biết chữ, biết
đến Nho học còn chưa nhiều. Các nhà sư
thường là lớp trí thức quan trọng trong
triều đình Đinh, Tiền Lê và đầu thời Lý.
Cùng với đó, khi việc xây dựng Nhà
nước theo mô hình của phong kiến phương
Bắc trở thành tất yếu thì Nho học cũng
ngày càng có vai trò quan trọng. Phạm Đức
Anh trong Mô hình tổ chức Nhà nước ở
Việt Nam thế kỉ X-XIX cho biết, trong quan
chế của triều Lý có 28 danh chức, nếu so
sánh với Trung Hoa, triều Lý gần như vay
mượn toàn bộ từ quan chế nhà Tống với
23/28 chức giống nhau. Trong 23 chức đó,
triều Tống sử dụng lại 19 chức từ quan chế
thời Đường (Phạm Đức Anh, 2015, tr. 40).
Xây dựng bộ máy chính quyền theo mô
hình Đường, Tống, các vua Lý cũng từng
bước tiếp nhận phương thức tuyển dụng
quan lại qua thi cử của phong kiến Trung
Hoa. Nhu cầu về nhân lực cho bộ máy
hành chính từ trung ương đến địa phương
luôn thường trực, nhất là trong bối cảnh
cần khẳng định và củng cố quyền lực của
Nhà nước trung ương ở các địa phương của
nước Đại Việt. Ngay từ khi mới thành lập,
nhà Lý đã có sự ưu ái dành cho những
người trong hoàng tộc, những tướng lĩnh
có công lao phò tá và hình thức tuyển lựa
quan lại chủ yếu được thực hiện bằng con
đường bảo cử, tập ấm. Tuy nhiên, các vua
Lý cũng sớm nhận ra rằng, để khách quan
và lựa chọn rộng rãi được nhiều nhân tài
tham gia vào bộ máy chính quyền từ trung
ương đến địa phương, không có con đường
nào hiệu quả hơn là thông qua khoa cử. Có
TRẦN THỊ THÁI HÀ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
7
thể thấy rằng, qua hàng trăm năm thử
thách, Phật giáo và giáo dục Phật giáo cũng
đã tự bộc lộ những điểm không phù hợp
với yêu cầu của xã hội lúc này, “Trong đó
nổi bật nhất là việc học mà không thi”,
không có hệ thống các kì thi chuẩn mực
cũng như học vị “để đánh dấu quá trình dùi
mài đèn sách” (Nguyễn Khắc Thuần, 1998,
tr. 54). Đặt trong bối cảnh như vậy, rõ ràng
giáo dục và khoa cử Nho học đã tỏ rõ ưu
thế trong so sánh với Phật giáo, phù hợp
với những thay đổi của thời cuộc, đáp ứng
nhu cầu của xã hội Việt Nam đang trên đà
phát triển ở thế kỉ XI.
Trong những yếu tố tác động đến sự
chú ý của các vua Lý tới Nho giáo và hình
thành trong họ tư tưởng dung hoà giữa
Phật giáo, Nho giáo có lẽ cũng cần xem xét
đến vai trò của Thiền phái Thảo Đường.
Nếu Thiền phái Tì ni đa lưu chi chịu nhiều
ảnh hưởng của Mật giáo, có nhiều nhà sư
nổi tiếng về pháp thuật, dùng sấm vĩ và
phong thuỷ trong hoạt động chính trị,
Thiền phái Vô ngôn thông mang nhiều ảnh
hưởng của Thiền phái Nam phương ở
Trung Quốc và có phần chịu ảnh hưởng
của Tịnh Độ tông – chủ trương niệm Phật
để đạt đến “nhất tâm bất loạn”, nhấn mạnh
“đốn ngộ” và “vô đắc” (Nguyễn Lang,
1993, tr. 184), thì Thiền phái Thảo Đường
- một Thiền phái mới xuất hiện ở Việt Nam
vào cuối thập niên 70 của thế kỉ XI lại
mang khuynh hướng coi trọng trí thức và
thi ca, chủ trương dung hoà Phật giáo và
Nho giáo (Phan Huy Lê, 2006, tr. 590).
“Thiền phái này không cắm rễ được trong
quần chúng mà chỉ ảnh hưởng được tới
một số trí thức có khuynh hướng văn học”
và “ảnh hưởng của Thiền phái này chỉ đáng
kể về mặt học tập” (Nguyễn Lang, 1993, tr.
191). Thiền uyển tập anh còn ghi phổ hệ 9
đời gồm 19 người thuộc Thiền phái Thảo
Đường, đặc biệt phải kể đến thế hệ thứ hai
có vua Lý Thánh Tông, thế hệ thứ 4 có vua
Lý Anh Tông, thế hệ thứ 6 có vua Lý Cao
Tông (Nguyễn Lang, 1993, tr. 190). Như
vậy, rõ ràng những tư tưởng của dòng thiền
Thảo Đường không chỉ được các vua Lý
tiếp nhận mà bản thân nhà vua còn trở
thành những cao tăng, có ảnh hưởng lớn
trong xã hội và được lịch sử của Thiền phái
ghi nhận. Trong đó, vua Lý Thánh Tông
thuộc thế hệ thứ hai của phái Thảo Đường
cũng chính là người đã cho xây dựng Văn
miếu, tổ chức kì thi đầu tiên năm 1075 và
lập ra Quốc Tử Giám vào năm sau đó.
Tựu trung lại, do yêu cầu xây dựng và
củng cố chế độ quân chủ tập quyền mà nhà
Lý cần dựa vào Nho giáo và Nho học để
xây dựng thiết chế chính trị. Và như vậy,
sau một thời gian dài, Nho học đã có cơ hội
thuận lợi để thâm nhập vào xã hội Việt
Nam, xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính
thể đương thời. Giáo dục và khoa cử Nho
học được nhà Lý chủ động tiếp nhận là biểu
hiện rõ rệt nhãn quan chính trị, kế sách trị
nước của các vua triều Lý, đặc biệt là Lý
Thánh Tông. Vương triều Lý có lẽ cũng
như các triều đại phong kiến sau này vì
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đã
tiếp nhận, khai thác những yếu tố Nho giáo
phù hợp với xã hội, tiếp nhận Nho học –
Nho giáo như một công cụ tư tưởng để tổ
chức xã hội, trước hết ở các phương diện
như nhân cách cá nhân, gia đình được củng
cố, xã hội và đất nước được ổn định: “Các
nhà Nho Việt Nam không bàn nhiều về lí
luận phức tạp mà chú trọng vào củng cố
nhân luân hiếu đễ, củng cố nền kinh tế nông
nghiệp, củng cố khối cộng đồng gia đình -
họ tộc – xóm làng, củng cố việc học hành
khoa cử” (Phan Đại Doãn, 1999, tr. 10).
2.2. Thành tựu của giáo dục và khoa
cử thời Lý
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
8
Có thể điểm qua những thành tựu tiêu
biểu của giáo dục và khoa cử Nho học thời
Lý qua hai nội dung chính như sau:
2.2.1. Văn miếu và Quốc Tử Giám
được xây dựng, mở đầu cho nền giáo dục
Nho học ở Việt Nam
Năm 1070, vua Lý Thánh Tông đã
chấp thuận việc xây Văn miếu ngay tại
kinh thành Thăng Long. Về sự kiện này, sử
chép: “Mùa thu, tháng 8, làm Văn miếu,
đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và tứ
phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa
cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”
(Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009,
tr. 348).
Mặc dù Nho giáo vào Việt Nam từ rất
sớm, nhưng cho đến thế kỉ XI, việc xây
dựng Văn miếu mới được chính sử lần đầu
tiên đề cập tới. Một số nước khác có ảnh
hưởng của Nho giáo như Nhật Bản, Hàn
Quốc cũng đều có miếu thờ Khổng Tử
nhằm tôn vinh ông và nền Nho học do ông
sáng lập. Là một dạng kiến trúc của các
nước phương Đông chịu ảnh hưởng của
văn hoá Nho giáo, Văn miếu vừa là chỗ để
thờ các vị thánh hiền của Nho giáo như
Khổng Tử, Chu Công, Nhan Tử, Tăng Tử,
Tử Tư, Mạnh Tử, đồng thời được sử dụng
như một địa điểm để dạy học. Về sau này,
Văn miếu còn là nơi bảo tồn những tấm bia
đá khắc ghi tên tuổi những người đỗ đại
khoa của quốc gia hay địa phương nơi lập
Văn miếu.
Thông tin từ chính sử cho biết, Văn
miếu ở kinh thành Thăng Long ngay từ khi
được nhà vua cho xây dựng năm 1070 đã
đồng thời thực hiện hai chức năng: tôn giáo
và văn hoá, vừa là miếu thờ và là nơi học
tập của vị vua tương lai. Sự nghèo nàn về
tư liệu không cho phép có thể đưa ra bất cứ
phác hoạ nào về quy mô, kiến trúc cũng
như việc thờ phụng diễn ra tại Văn miếu
được dựng năm 1070. Theo ghi chép của
Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
vào năm 1156, vua Lý Anh Tông theo lời
của Tô Hiến Thành cho dựng miếu thờ
riêng Khổng Tử ở phía Nam thành Thăng
Long (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998,
tr. 409), năm 1171, cho sửa lại miếu này
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998, tr.
415). Như vậy phải chăng trong thế kỉ XI-
XII, ở kinh thành Thăng Long có hai Văn
miếu. Văn miếu thứ hai được xây dựng
năm 1156 chỉ để thờ riêng một mình
Khổng Tử, không phối thờ bất kì nhân vật
nào khác và chỉ thực hiện một chức năng
duy nhất là nơi thờ Khổng Tử.
Về thời điểm xuất hiện chính xác của
Quốc Tử Giám hiện chưa thể xác định,
nhưng căn cứ vào sự kiện năm 1076, vua
Lý Nhân Tông“chọn quan viên văn chức,
người nào biết chữ cho vào Quốc Tử
Giám” (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều
Lê, 2009, tr. 352), cho thấy Quốc Tử Giám
rất có thể đã được xây dựng gần với thời
điểm của Văn miếu. Quốc Tử Giám đào
tạo học trò ở nhiều trình độ cao thấp khác
nhau, trong đó cao nhất là bậc tương đương
với đại học (Nguyễn Khắc Thuần, 1998, tr.
55). Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu đồng ý
với quan điểm: cũng từ Quốc Tử Giám,
nền đại