Giao lưu và tiếp xúc văn hóa tộc người qua quan hệ hôn nhân

1. Nghiên cứu hôn nhân đa tộc người và vấn đề quan hệ hôn nhân ở người Thái miền Tây Nghệ An Trong nhiều năm trở lại đây, nhiều nghiên cứu khoa học xã hội đã quan tâm đến các vấn đề giao lưu và tiếp biến văn hóa qua quan hệ hôn nhân giữa các cộng đồng với nhau. Thực ra, đây không phải là vấn đề mới trong nghiên cứu khoa học xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực dân tộc học. Từ khi xuất hiện, ngành dân tộc học đã đặt nhiều mối quan tâm về vấn đề hôn nhân và xem trao đổi hôn nhân là một phần quan trọng trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa các thị tộc, bộ lạc trong xã hội nguyên thủy. Đặc biệt là các cơ chế trong quan hệ hôn nhân và các quy tắc, quy luật liên quan đến hôn nhân. Các nghiên cứu về xã hội nguyên thủy dường như không thể bỏ qua vấn đề này. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, khi mà quá trình toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và tác động đến hầu hết các cộng trạng hôn nhân đa tộc trở nên phổ biến. Hôn nhân giữa các tộc người với nhau là vấn đề quan trọng liên quan đến quan hệ dân tộc và quá trình biến đổi văn hóa tộc người. Huyện Tương Dương nói riêng và các huyện ở miền núi Nghệ An là khu vực có nhiều dân tộc cùng sinh sống xen kẽ với nhau. Trong những năm gần đây, quan hệ hôn nhân giữa các tộc người xuất hiện và ngày càng phổ biến. Nó là một biểu hiện cho sự thay đổi trong quan hệ dân tộc cũng như quá trình giao lưu, tiếp biến về mặt văn hóa giữa các tộc người khác nhau ngày càng mạnh mẽ. Kết quả khảo sát tình trạng hôn nhân giữa các tộc người ở Bản Ang, xã Xá Lượng, huyện Tương Dương phần nào nói lên điều đó. (Khảo sát thực tế ở huyện Tương Dương, Nghệ An) Bản làng huyện Tương DươngTạp chí KH-CN Nghệ An SỐ 12/2017 [40] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đồng tộc người thì mối quan hệ hôn nhân cũng được mở rộng nghiên cứu theo nhiều chiều hướng khác nhau. Một trong số đó là tìm hiểu quan hệ hôn nhân liên quốc gia, xem đó như là một tác nhân, một con đường quan trọng trong sự giao lưu văn hóa của các quốc gia khác nhau. Ở Việt Nam, những nghiên cứu về quan hệ hôn nhân giữa người Việt với người Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và có nhiều công trình xuất hiện (C. Julia Huang và Kuang-ting Chuang, 2010). Nhìn rộng hơn là những nghiên cứu về giao lưu văn hóa xuyên quốc gia qua các hiện tượng di cư theo hôn nhân hay dịch chuyển lao động theo mùa (Suhong Chae, 2010; Christian Schwenkel, 2010). Những nghiên cứu này phần nào cho chúng ta những luận chứng về giao lưu văn hóa giữa các quốc gia trong quá trình toàn cầu hóa. Trong khi đó, ở cấp độ tộc người, quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa qua quan hệ hôn nhân vẫn còn nhiều vấn đề phải xem xét. Về mặt biểu hiện, rõ ràng quan hệ hôn nhân đa tộc người đang ngày càng phổ biến, nhất là ở các vùng, các địa phương có sự cư trú xen kẽ nhiều tộc người với nhau. Tuy nhiên, ở đâu đó, vấn đề quan hệ hôn nhân giữa các tộc người trong một địa phương nhỏ vẫn còn là một khoảng trống chưa được quan tâm xứng đáng.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 92 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giao lưu và tiếp xúc văn hóa tộc người qua quan hệ hôn nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 12/2017 [39] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI GIAO LƯU VÀ TIẾP XÚC VĂN HÓA TỘC NGƯỜI QUA QUAN HỆ HÔN NHÂN n Bùi Minh Hào(*) 1. Nghiên cứu hôn nhân đa tộc người và vấn đề quan hệ hôn nhân ở người Thái miền Tây Nghệ An Trong nhiều năm trở lại đây, nhiều nghiên cứu khoa học xã hội đã quan tâm đến các vấn đề giao lưu và tiếp biến văn hóa qua quan hệ hôn nhân giữa các cộng đồng với nhau. Thực ra, đây không phải là vấn đề mới trong nghiên cứu khoa học xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực dân tộc học. Từ khi xuất hiện, ngành dân tộc học đã đặt nhiều mối quan tâm về vấn đề hôn nhân và xem trao đổi hôn nhân là một phần quan trọng trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa các thị tộc, bộ lạc trong xã hội nguyên thủy. Đặc biệt là các cơ chế trong quan hệ hôn nhân và các quy tắc, quy luật liên quan đến hôn nhân. Các nghiên cứu về xã hội nguyên thủy dường như không thể bỏ qua vấn đề này. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, khi mà quá trình toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và tác động đến hầu hết các cộng Trong thời đại toàn cầu hóa, quá trình giaolưu, tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồngtộc người ngày càng mạnh mẽ nên tình trạng hôn nhân đa tộc trở nên phổ biến. Hôn nhân giữa các tộc người với nhau là vấn đề quan trọng liên quan đến quan hệ dân tộc và quá trình biến đổi văn hóa tộc người. Huyện Tương Dương nói riêng và các huyện ở miền núi Nghệ An là khu vực có nhiều dân tộc cùng sinh sống xen kẽ với nhau. Trong những năm gần đây, quan hệ hôn nhân giữa các tộc người xuất hiện và ngày càng phổ biến. Nó là một biểu hiện cho sự thay đổi trong quan hệ dân tộc cũng như quá trình giao lưu, tiếp biến về mặt văn hóa giữa các tộc người khác nhau ngày càng mạnh mẽ. Kết quả khảo sát tình trạng hôn nhân giữa các tộc người ở Bản Ang, xã Xá Lượng, huyện Tương Dương phần nào nói lên điều đó. (Khảo sát thực tế ở huyện Tương Dương, Nghệ An) Bản làng huyện Tương Dương Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 12/2017 [40] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đồng tộc người thì mối quan hệ hôn nhân cũng được mở rộng nghiên cứu theo nhiều chiều hướng khác nhau. Một trong số đó là tìm hiểu quan hệ hôn nhân liên quốc gia, xem đó như là một tác nhân, một con đường quan trọng trong sự giao lưu văn hóa của các quốc gia khác nhau. Ở Việt Nam, những nghiên cứu về quan hệ hôn nhân giữa người Việt với người Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và có nhiều công trình xuất hiện (C. Julia Huang và Kuang-ting Chuang, 2010). Nhìn rộng hơn là những nghiên cứu về giao lưu văn hóa xuyên quốc gia qua các hiện tượng di cư theo hôn nhân hay dịch chuyển lao động theo mùa (Suhong Chae, 2010; Christian Schwenkel, 2010). Những nghiên cứu này phần nào cho chúng ta những luận chứng về giao lưu văn hóa giữa các quốc gia trong quá trình toàn cầu hóa. Trong khi đó, ở cấp độ tộc người, quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa qua quan hệ hôn nhân vẫn còn nhiều vấn đề phải xem xét. Về mặt biểu hiện, rõ ràng quan hệ hôn nhân đa tộc người đang ngày càng phổ biến, nhất là ở các vùng, các địa phương có sự cư trú xen kẽ nhiều tộc người với nhau. Tuy nhiên, ở đâu đó, vấn đề quan hệ hôn nhân giữa các tộc người trong một địa phương nhỏ vẫn còn là một khoảng trống chưa được quan tâm xứng đáng. Miền Tây Nghệ An là một địa bàn có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống bên cạnh người Kinh. Trong đó, người Thái là dân tộc có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Về dân số, họ chiếm ưu thế hơn so với các cộng đồng còn lại (trừ người Kinh, dù rằng ở một số địa phương cấp xã, thậm chí cấp huyện, người Thái còn đông hơn người Kinh). Nền văn hóa Thái cũng có sức lan tỏa mạnh mẽ đối với các nền văn hóa khác bên cạnh họ như: Khơ Mú, Ơ Đu, Thổ Cộng đồng người Thái ở miền Tây Nghệ An cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, với hàng trăm công trình ở các cấp độ khác nhau như sách, luận văn, luận án, bài nghiên cứu, bài báo (Vi Văn An, 2017). Những nghiên cứu này đã thể hiện được một bức tranh tổng thể các đặc trưng về văn hóa Thái ở Nghệ An. Tuy nhiên, những xu hướng biến đổi trong đời sống văn hóa của người Thái hiện nay dưới nhiều tác nhân khác nhau vẫn chưa được tìm hiểu thật sự kỹ càng, trong đó có vấn đề quan hệ hôn nhân. Khi nghiên cứu về người Thái (và các dân tộc thiểu số khác) ở miền Tây Nghệ An vào những năm 1980, Nguyễn Đình Lộc cũng có mô tả nhiều về quan hệ hôn nhân của người Thái. Nhưng những mô tả này tập trung vào các quy tắc, nghi thức liên quan đến hôn nhân trong xã hội truyền thống (Nguyễn Đình Lộc, 1993). Và, trong một nghiên cứu mới nhất được công bố năm 2017, là một chuyên khảo công phu về người Thái ở Nghệ An của nhà dân tộc học Vi Văn An - một người Thái ở huyện Con Cuông, khi đề cập đến vấn đề hôn nhân cũng chỉ nhấn mạnh đến các quy tắc trong hôn nhân của người Thái và những nghi lễ, phong tục liên quan. Trong nghiên cứu này, Vi Văn An đã đề cập đến những biến đổi trong đời sống hôn nhân của người Thái những năm gần đây, tuy nhiên, vấn đề quan hệ hôn nhân giữa người Thái với các nhóm tộc người khác vẫn chưa được ông đề cập đến (Vi Văn An, 2017). Nói vậy, không phải để phủ định giá trị của các công trình nghiên cứu trước đây, mà trái lại, là sự công nhận giá trị quan trọng của các nghiên cứu đó. Tuy nhiên, qua đó để nói lên rằng, việc nghiên cứu về một cộng đồng, một tộc người hay một nhóm nhất định không bao giờ được gọi là đủ, là kết thúc, vì bản thân các cộng đồng đó cũng luôn biến động, thay đổi theo sự thay đổi của thời đại, của tình hình kinh tế - xã hội chung. Mỗi một sự thay đổi đó là những mảnh đất mới cần được khám phá, tìm hiểu nhằm nhìn nhận lại quá khứ, hiện tại và tương lai của một vấn đề, một cộng đồng. Bài viết này tập trung xem xét một sự thay đổi trong quan hệ hôn nhân của một nhóm nhỏ người Thái mà tác giả khảo sát, qua đó góp phần tìm hiểu về sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng bên cạnh cộng đồng người Thái mà tác giả nghiên cứu. 2. Tình trạng hôn nhân đa tộc người ở Bản Ang Bản Ang là một bản người Thái nằm trên đường Quốc lộ số 7. Địa danh Bản Ang có nghĩa là bản có cư dân quy tụ, tập trung (từ “Ang” trong tiếng Thái có nghĩa là vòng tròn, vùng ức, với nghĩa là quy tụ, tập trung). Người Thái ở đây thuộc nhóm Thái trắng, phần lớn tập trung ở khu vực trung tâm của bản. Nhìn từ trên cao, dân cư Bản Ang tụ lại thành một vòng tròn có tâm là nhà văn hóa của bản. Hiện nay, Bản Ang có 213 hộ gia đình với 925 nhân khẩu. Khác với người Thái ở nhiều nơi khác, người Thái ở đây sống chủ yếu bằng nương rẫy, khai thác sản phẩm ở rừng, chăn nuôi và thủ công nghiệp, gần như cả bản không có ruộng nước để canh tác. Một điều đặc biệt ở Bản Ang là tình trạng hôn nhân đa tộc người khá phổ biến. Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 12/2017 [41] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Một bản với 213 hộ gia đình mà có đến 27 cặp vợ chồng có quan hệ hôn nhân đa dân tộc là một tỷ lệ tương đối lớn. Trong đó, quan hệ hôn nhân giữa người Thái với người Kinh có 13 cặp vợ chồng, chiếm 48,15%; quan hệ hôn nhân giữa người Thái với người Khơ Mú có 11 cặp vợ chồng, chiếm tỷ lệ 40,74%. Trong quan hệ hôn nhân với người Kinh, vốn là tộc người có sự phát triển kinh tế cao hơn so với người Thái, thì chiều hướng chủ yếu là phụ nữ Thái lấy chồng người Kinh, nhiều gấp hơn 3 lần so với việc đàn ông Thái lấy vợ người Kinh (10 cặp vợ chồng so với 3). Nhưng trong quan hệ hôn nhân với người Khơ Mú - một tộc người được cho là có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn người Thái thì có chiều hướng ngược lại. Cụ thể, số người Thái lấy vợ là người Khơ Mú cao gấp hơn 2 lần so với số người Thái lấy chồng là người Khơ Mú (8 cặp vợ chồng so với 3). Còn đối với nhóm người H’mông ở bản gần đấy, vốn là nhóm di cư vào sau và trước đây ít có quan hệ với nhóm người Thái thì quan hệ hôn nhân đã xuất hiện nhưng vẫn ở mức độ ít hơn, chiếm 11,11% số cặp vợ chồng quan hệ hôn nhân đa tộc người. Theo giới tính, số đàn ông người Thái lấy vợ người dân tộc khác cao gấp gần 3 lần so với số phụ nữ người Thái lấy chồng người dân tộc khác. Quan hệ hôn nhân đa tộc người ngày càng phổ biến là một trong những nguyên nhân làm cho nền văn hóa của cộng đồng người Thái ở Bản Ang ngày càng đa dạng và có những biến đổi phức tạp hơn. Đó là kết quả của sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các tộc người qua quan hệ hôn nhân. 3. Giao lưu và tiếp xúc văn hóa tộc người qua quan hệ hôn nhân Quan hệ hôn nhân vừa là một biểu hiện của quá trình giao lưu văn hóa, vừa là một bộ phận, một chất xúc tác cho quá trình giao lưu văn hóa. Xét trên nhiều góc độ, quan hệ hôn nhân là một con đường giao lưu văn hóa mạnh mẽ và sâu sắc. Khi hai gia đình thuộc hai cộng đồng dân tộc khác nhau có quan hệ hôn nhân thì như một Bảng 1: Tình trạng hôn nhân đa tộc người ở Bản Ang, xã Xá Lượng hệ quả tất yếu, hai gia đình và hai dòng họ, thậm chí là hai cộng đồng này sẽ có những giao lưu văn hóa với nhau. Để làm rõ hơn vấn đề này, xin được phân tích một vài ví dụ cụ thể: Trong số nhiều cặp vợ chồng khác tộc người ở Bản Ang, thì vợ chồng Lương và Lý (để đảm bảo tính ẩn danh trong một nghiên cứu nhân học, tôi xin phép được gọi tên theo họ của hai vợ chồng này) - Lương là người Thái còn Lý là người H’mông - gặp nhau trong một lần Lương vào bản của Lý mua quả dứa. Cả hai trao đổi số điện thoại cho nhau rồi sau đó trò chuyện thường xuyên với nhau, yêu thương nhau và đi đến hôn nhân. Lúc đầu, cả hai gia đình đều không đồng ý với lý do Lương và Lý ở hai dân tộc có nền văn hóa rất khác nhau. Nhưng cả hai đều kiên quyết yêu thương nhau nên hai gia đình cũng đồng ý cho làm đám cưới. Sau khi về nhà chồng sinh sống, với Lý đó là một thử thách lớn. Chị phải sống trong một nền văn hóa mới, với các phong tục tập quán khác những gì từ bé Lý trải nghiệm. Lý bắt đầu học tiếng Thái, học các phong tục tập quán và nghi lễ của nhà chồng qua sự chỉ bảo của mẹ chồng. Trong thời gian đầu, việc thực hành các phong tục tập quán phía nhà chồng luôn làm cho Lý lo lắng, và thực tế nhiều lần làm sai và bị khiển trách. Lý tâm sự: “Khi yêu thương nhau rồi kiên quyết lấy cho được nhau. Nhưng khi về nhà chồng mới thấy mình phải làm nhiều thứ mà trước đó không nghĩ đến. Từ đi lại, ăn nói, ứng xử đều phải thay đổi, phải học từ đầu các thứ về cuộc sống hàng ngày. Nhiều lúc cảm thấy mệt mỏi, tìm cách để cáu gắt hay cãi nhau với chồng để giải tỏa. Cũng có lúc ấm ức, ngồi khóc một mình Quan hệ hôn nhân Số lượng Tỷ lệ (%) Đàn ông người Thái lấy phụ nữ người Kinh 10 37,04 Phụ nữ người Thái lấy đàn ông người Kinh 3 11,11 Đàn ông người Thái lấy phụ nữ người Khơ Mú 8 29,63 Phụ nữ người Thái lấy đàn ông người Khơ Mú 3 11,11 Đàn ông người Thái lấy phụ nữ người H’mông 2 7,41 Phụ nữ Thái lấy đàn ông người H’mông 1 3,70 Tổng số cặp vợ chồng hôn nhân đa tộc người 27 100,00 Nguồn: Số liệu thống kê qua khảo sát thực địa của tác giả tại Bản Ang, tháng 8/2016 Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 12/2017 [42] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI và muốn bỏ về nhà mẹ nhưng không dám vì tự mình đòi lấy chứ không phải cha mẹ ép gả. Trước đây cứ nghĩ mình biết tiếng Kinh và nói chuyện với mọi người nhà chồng cũng như với chồng bằng tiếng Kinh là được. Nhưng khi về mọi người bảo phải học tiếng Thái thì cũng phải chấp nhận học. Cũng may là sinh con sớm, và được gia đình chồng động viên nhiều nên cũng đỡ và càng ngày càng hòa nhập hơn” (Phỏng vấn ngày 17/8/2016). Về phần Lương, dù không phải học nhiều điều như Lý nhưng anh cũng phải biết một số phong tục, tập quán cơ bản của nhà vợ để khi đến nhà vợ biết cách hành xử sao cho những người khác không trách cứ. Do vậy mà sau hơn ba năm, Lương cũng biết một ít tiếng H’mông và những nét văn hóa đặc trưng nhà vợ. Không chỉ ở cấp độ gia đình, mà hai dòng họ của Lương và Lý khi quyết định gả con cái cho nhau cũng có lập một giao ước là sau này, nếu trong hai dòng họ có những người con cháu yêu thương nhau muốn tiến tới hôn nhân thì hai gia đình, hai dòng họ phải tạo điều kiện và giảm nhẹ các khoản thách cưới cũng như giúp đỡ con cháu trong cuộc sống. Qua phân tích một trường hợp như vậy để thấy sự giao lưu văn hóa qua quan hệ hôn nhân vô cùng mạnh mẽ. Chỉ hai người có quan hệ vợ chồng với nhau nhưng kéo theo đó là hai gia đình, hai dòng họ và lớn hơn nữa là hai cộng đồng ở hai tộc người khác nhau có sự giao lưu văn hóa với nhau. Và trong tương lai xa hơn một chút nữa, những cặp vợ chồng này sẽ sinh ra những thế hệ mang trong mình dòng máu lai và sẽ được thừa hưởng những giá trị của các nền văn hóa khác nhau. Đương nhiên, như một hệ quả không tránh khỏi đó là sự xung đột văn hóa. Khi hai vợ chồng ở hai nền văn hóa khác nhau cùng về chung sống trong một gia đình thì sự xung đột văn hóa là khó tránh khỏi. Thậm chí, có những gia đình không chỉ là nơi tiếp xúc của hai nền văn hóa mà đôi khi còn nhiều hơn khi các thành viên khác trong gia đình có quan hệ hôn nhân với các đối tượng thuộc các dân tộc khác nhau. Ở Bản Ang có trường hợp một gia đình người Thái có con dâu là người Khơ Mú và con rể là người Kinh nên sự giao lưu văn hóa trong gia đình ít nhất có đến 3 giá trị văn hóa khác nhau. Sự xung đột văn hóa có xuất hiện nhưng không quá gay gắt, chủ yếu vẫn ở trong phạm vi cuộc sống vợ chồng. Đã có những cặp vợ chồng đi đến tan vỡ, nhưng như chính họ chia sẻ thì là do một phía làm ăn không tốt, sa vào nghiện ngập hay hay đánh vợ con nên phải chia tay chứ không hoàn toàn vì sự khác biệt văn hóa. Như vậy, quan hệ hôn nhân đa tộc người là một nhân tố thúc đẩy sự giao lưu văn hóa tộc người ở các cấp độ khác nhau một cách mạnh mẽ. Một mặt, nó làm cho các yếu tố văn hóa, các nền văn hóa xích lại gần nhau hơn qua sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa. Mặt khác, cũng xuất hiện những xung đột văn hóa trong cấp độ gia đình, nhưng hầu hết vẫn được hòa giải qua các cơ chế khác nhau giữa các cá nhân và gia đình liên quan. Vậy nên, dù quan hệ hôn nhân đa tộc người có phần phức tạp hơn so với quan hệ hôn nhân trong tộc người, tuy nhiên, càng ngày, mối quan hệ hôn nhân giữa các tộc người càng phổ biến. Và nó cũng là một biểu hiện cho sự phức tạp ngày càng tăng của quan hệ dân tộc, quan hệ văn hóa. 4. Các yếu tố tác động đến quan hệ hôn nhân đa tộc người Trước hết, quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến mối quan hệ này. Trong xã hội truyền thống của người Thái cũng như một số dân tộc như Khơ Mú, H’mông thì không ủng hộ quan hệ hôn nhân với người dân tộc khác. Họ không đặt ra những quy định cấm tuyệt đối nhưng bức tường về sự khác biệt văn hóa vẫn còn quá cao so với tình yêu nam nữ lúc đó. Tâm lý cộng đồng cũng không ủng hộ quan hệ hôn nhân đa tộc người. Tuy nhiên, hiện nay, khi bức tường khác biệt văn hóa được “hạ thấp”, quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hóa mạnh mẽ đã kéo các tộc người lại gần với nhau, làm cho họ “hiểu” nhau hơn thì quan hệ hôn nhân đa tộc người cũng xuất hiện và phổ biến hơn. Đây cũng là một trong những hệ quả của việc thực hiện các chính sách phát triển miền núi và xây dựng đời sống văn hóa mới ở các dân tộc thiểu số trong mấy thập niên qua. Cụ thể, quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở miền núi làm cho hệ thống giao thông đi lại của vùng này trở nên dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho quá trình tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng diễn ra mạnh mẽ hơn. Một yếu tố quan trọng, mang tính xúc tác mạnh mẽ cho sự phổ biến của quan hệ hôn nhân đa tộc người chính là sự xuất hiện của tiếng Kinh. Một trong những rào cản quan trọng đối với hôn nhân đa tộc người trước đây chính là ngôn ngữ. Khi các nhóm tộc người khác nhau không biết ngôn ngữ của nhau thì việc xuất hiện quan hệ hôn nhân giữa họ là rất hiếm, vì họ khó có thể giao tiếp, trao đổi với Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 12/2017 [43] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI nhau để hiểu nhau. Khi hệ thống chính quyền người Kinh được xây dựng chính thức, ngôn ngữ người Kinh được dạy cho đồng bào các dân tộc thiểu số qua hệ thống giáo dục phổ thông tạo điều kiện cho đồng bào có thể giao tiếp với nhau bằng tiếng Kinh. Nói cách khác, sự xuất hiện của tiếng Kinh đã san bằng rào cản ngôn ngữ để các nhóm dân tộc khác nhau có thể giao tiếp dễ dàng với nhau hơn. Hầu hết các cặp vợ chồng có quan hệ hôn nhân đa tộc người này đều biết tiếng Kinh, dù sau đó, khi trở thành vợ chồng, họ có thể học thêm ngôn ngữ phía chồng hoặc phía vợ nhưng giao tiếp ban đầu của họ là tiếng Kinh. Tâm lý tộc người cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ hôn nhân đa tộc người. Trước đây, tâm lý phân biệt đẳng cấp giữa các tộc người cũng là một sự ngăn cản đối với quan hệ hôn nhân. Người Kinh dưới xuôi mới lên coi người Thái là “tộc”, “người dân tộc” (với ý coi thường) và thường ngăn cản nếu ai có ý định lấy vợ/chồng là người Thái. Còn người Thái cũng coi người Khơ Mú là “cuông, nhóc”, là tầng lớp thấp trong xã hội và quan hệ hôn nhân với người Khơ Mú không được ủng hộ. Nhưng trong quá trình tiếp xúc, với mục tiêu hội nhập, hòa nhập và phát triển thì tâm lý tộc người cũng thay đổi. Dù chưa mất hẳn nhưng sự phân biệt đẳng cấp giữa các tộc người ngày càng hạn chế, con người sống với nhau trân trọng hơn, biết điểm mạnh, điểm yếu và tôn trọng nhau hơn. Đó cũng là nhân tố mở đường, thúc đẩy cho quan hệ hôn nhân giữa các tộc người khác nhau. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường đối với sự tăng nhanh của quan hệ hôn nhân giữa các tộc người. Nếu ai nói rằng thị trường không liên quan đến vấn đề hôn nhân thì đó là cái nhìn khu biệt, hạn hẹp. Ở đây, không nói đến thị trường hôn nhân, mà nói đến sự tác động của kinh tế thị trường đối với tình trạng hôn nhân đa tộc người ở Xá Lượng hiện nay. Khi nhìn rộng ra thì kinh tế thị trường lại có vai trò quan trọng trong vấn đề này. Vai trò này thể hiện qua việc thị trường đã cung cấp các phương tiện thông tin, phương tiện giao thông như điện thoại, xe máy... Và thông qua các phương tiện này, việc trao đổi thông tin, tình cảm giữa các chàng trai, cô gái được thuận lợi hơn và gắn kết hơn. Nhiều trường hợp ở Bản Ang, các chàng trai cô gái gặp nhau trong một dịp đi đám cưới, đi làm nương hay đi bán hàng, đi chơi, họ làm quen và xin số điện thoại của nhau. Từ đó hàng ngày họ nhắn tin, gọi điện và trao đổi tình cảm, rồi đi đến hôn nhân. Hay sự xuất hiện của những chiếc xe máy cũng tạo điều kiện cho các cặp trai gái gặp gỡ nhau dễ dàng hơn trong quá trình yêu đương và tìm hiểu. Nói chung, các phương tiện thông tin mà họ có được qua sự cung cấp của thị trường đã thu hẹp khoảng cách về không gian giữa con người với nhau, đẩy mạnh cường độ trao đổi thông tin là một tác nhân ảnh hưởng đến quan hệ hôn nhân. Không chỉ vậy, thị trường cũng kéo các tộc người lại gần nhau qua việc cung chấp những chuỗi hàng hóa cho nhiều cộng đồng khác nhau cùng hưởng dụng, làm cho khoảng cách về sự phát triển rút ngắn lại và tâm lý tộc người cũng thay đổi. Ví dụ như trước đây, người Khơ Mú không biết dệt may áo quần, họ phải mua áo quần của người Thái về mặc, nên người Thái cũng có phần không coi trọng người Khơ Mú và xem họ trình độ thấp hơn mình. Nhưng hiện nay, cả người Thái lẫn người Khơ Mú, hầu hết đều mua áo quần từ người Kinh về mặc thì cái nhìn đó cũng giảm đi. Khi tâm lý tộc người được tháo gỡ thì quan hệ tộc người cũng thay đổi và quan hệ hôn nhân cũng từ đó mà nhen nhóm thêm. 5. Những vấn đề đặt ra trong quan hệ hôn nhân đa tộc người Trước hết, về văn hóa, đó là sự tiếp xúc của các nền văn hóa khác nhau trong một thiết chế hẹp là cấp độ vợ chồng, lớn hơn là quan hệ giữa các gia đình, các dòng họ với nhau và cao hơn là sự tiếp xúc của hai nền văn hóa tộc người khác nhau. Trong các mối quan hệ hôn nhân đa tộc người ở Bản Ang có trường hợp hai vợ chồng trẻ vừa mới cưới nhau được hơn 3 năm. Chồng là người Thái còn vợ là người H’mông ở cách nhau khoảng 5km. Họ gặp nhau trong một lần anh này vào bản của người H’mông để mua hàng, hai người trao đổi số điện thoại, hàng ngày trò chuyện với nhau rồi yêu thương nhau. Khi anh này nói với gia đình muốn cưới cô gái H