Sinh vật học dùng cho khối trung học của trường cao đẳng thuỷsản là 
phần được giảng dạy cho học viên ởnăm thứnhất của hệtrung cấp. Nội dung 
chủyếu gồm 3 phần chính: 
1. Phần I: Sinh vật học đại cương bao gồm các kiến thức cơbản nhất của 
sinh học tếbào, những đặc điểm chung của cơthểsống và các phương pháp 
chọn giống, nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo của ngành nuôi trồng thuỷsản. 
2. Phần II: Trực vật bậc thấp bao gồm một sốkiến thức cơbản vềgiải 
phẫu, sinh lý, cấu tạo, phân loại của một sốngành thực vật bậc thấp có giá trị
kinh tế đã và đang trởthành đối tượng nuôi trồng thuỷsản, bên cạnh đó còn đề
cập tới các giống loài có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới môi trường nuôi 
trồng thuỷsản.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 116 trang
116 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1790 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Sinh vật học - Nguyễn Hồng Hải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
BỘ THỦY SẢN 
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỦY SẢN 
GIÁO TRÌNH SINH VẬT HỌC 
(Dùng cho trung học nuôi trồng thuỷ sản) 
Biên soạn : Nguyễn Hồng Hải 
Băc ninh ngày 12 tháng 2 năm 2007 
 2
LỜI MỞ ĐẦU 
 Sách “Giáo trình sinh vật học” dùng cho trung học nuôi trông thuỷ sản 
nhằm đáp ứng yêu cầu học tập, giảng dạy và tham khảo của học sinh trong 
trường Cao đẳng thuỷ sản. Sách được biên soạn có sự lựa chọn trên những kiến 
thức cơ bản hiện đại, có tham khảo, chỉnh lý và bổ xung cho phù hợp với đối 
tượng và nhiệm vụ đào tạo của nhà trường và của ngành thuỷ sản trong giai 
đoạn hiện nay. 
Để phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản, sách được trình bày theo hệ thống 
bài giảng của trường, có đề cập tới các đặc điểm chung của các cơ thể sống, c¸c 
ph−¬ng ph¸p chọn giống và có chú ý tới những kiến thức cơ bản về giải phầu, 
sinh lý, sinh thái, đồng thời có giới thiệu hệ thống phân loại từ thấp đến cao của 
động vật không xương sống ở nước và thực vật bậc thấp. 
Trong quá trình biên soạn, tôi có sử dụng một số tài liệu của các tác giả 
trong và ngoài nước. Tôi rất mong nhận được sự góp ý trân thành của các bạn 
đồng nghiệp và đọc giả. 
 Người biên soạn 
 Nguyễn Hồng Hải 
 3
MỤC LỤC 
Bài mở đầu Trang 4 
Phần I : Sinh học đại cương 
Chương I : sinh học tế bào 
1. Thành phần hoá học của tế bào 5 
2. Cấu tạo của tế bào 11 
3. Phân bào 21 
3. Sự trao đổi chất ở tế bào 28 
4. Tế bào trong cơ thể đa bào 35 
 Chương II : Những đặc điểm chung của cơ thể sống 40 
1. Hình dạng và kích thước 
2. Trao đổi chất 
3. Sinh trưởng và phát triển 
4. Vận động 
5. Sinh sản 
6. Cảm ứng 
7. Đặc điểm thích nghi 
 Chuong III : Các phương pháp chọn giống 51 
1. Chọn giống truyền thống 
2. Chọn giống hiện đại 
Phần II: Thực vật bậc thấp 
1. Tảo lam Cyanophyta 57 
2. Nấm nhày Myxomycota 63 
3. Nấm Mycota 64 
4. Tảo giáp Pyrrophyta 70 
5. Tảo sillic Bacillariophyta 71 
6.Tảo vàng Xanthophyta 73 
7. Tảo nâu Phaeophyta 75 
8. Tảo đỏ Rhodophyta 77 
9. Tảo mắt Euglenophyta 80 
10. Tảo vòng Charophyta 82 
11.Tảo lục Chlorophyta 84 
10. Địa y Lichenophyta 86 
Phần III : động vật không xương sống 
 1. Nguyên sinh động vật Protozoa 89 
2. Thân lỗ Spongia ( hoặc Porifera) 94 
3. Ruột khoang Coelenterata 99 
4. Trùng báng xe Rotatoria 102 
5. Giun đốt Annelida 104 
6. Chân khớp Arthropoda 105 
7. Thân mềm Mollusca 111 
8. Da gai Echinodermata 113 
 4
BÀI MỞ ĐẦU 
I. Mục đích yêu cầu của sinh vật học 
Sinh vật học dùng cho khối trung học của trường cao đẳng thuỷ sản là 
phần được giảng dạy cho học viên ở năm thứ nhất của hệ trung cấp. Nội dung 
chủ yếu gồm 3 phần chính: 
 1. Phần I: Sinh vật học đại cương bao gồm các kiến thức cơ bản nhất của 
sinh học tế bào, những đặc điểm chung của cơ thể sống và các phương pháp 
chọn giống, nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo của ngành nuôi trồng thuỷ sản. 
 2. Phần II: Trực vật bậc thấp bao gồm một số kiến thức cơ bản về giải 
phẫu, sinh lý, cấu tạo, phân loại của một số ngành thực vật bậc thấp có giá trị 
kinh tế đã và đang trở thành đối tượng nuôi trồng thuỷ sản, bên cạnh đó còn đề 
cập tới các giống loài có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới môi trường nuôi 
trồng thuỷ sản. 
 3. Phần III Động vật không xương sống ở nước: Nhằm giới thiệu một số 
kiến thức cơ bản về giải phẫu, sinh lý, cấu tạo, phân loại của một số ngành động 
vật không xương sống sống ở môi trường nước đã và đang trở thành đôi tượng 
nuôi hoặc khai thác của ngành nuôi trồng thuỷ sản, 
 Sinh vật học dùng trong trường Cao đẳng thuỷ sản cho khối trung học 
nghề nhằm giúp học viên hiểu được những nguyên lý cơ bản và hiện đại về cấu 
trúc, chức năng của tế bào, đặc biệt là sự hoạt động của tế bào trong cơ thể đa 
bào và những đặc điểm chung nhất của cơ thể sống, đó là những cơ sở khoa học 
của tất cả các biện pháp kỹ thuật trong nuôi trồng thuỷ sản. Đồng thời cuốn sách 
này còn giúp học viên nắm chắc các kiến thức giải phẫu, sinh lý, sinh thái, phân 
loại của một số đối tượng trong các ngành thực vật bậc thấp và động vật không 
xương sống ở nước có liên quan tới nghề nuôi trồng thuỷ sản, rồi từ đó làm cơ 
sở cho sự tiếp thu các môn khoa học khác trong trường và ứng dụng vào trong 
thực tế sản xuất thuỷ sản. 
 II. Mục đích kinh tế của môn học 
 Cuộc cách mạng sinh học từ nửa thế kỷ XX trở lại đây đã trở thành trung 
tâm của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai của loài người. Hiệu quả 
của cuộc cánh mạng này đã cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần cho 
con người. Sinh học đa nâng cao năng xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm tăng 
nhanh nguồn lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân 
loại. Cuộc cách mạng xanh thực chất đó là công nghệ sinh học và ứng dụng các 
thành tựu của sinh học, di truyền chọn giống, tạo ra các giống vật nuôi và cây 
trồng có năng xuất cao, phẩm chất tốt thích ứng với nhu cầu con người và phù 
hợp cho từng địa phương. 
 Đối với nuôi trồng thuỷ sản, nhìn chung, các giống loài trong các ngành 
thực vật bậc thấp, các ngành động vật không xương sống ở nước đã và đang trở 
thành đối tượng nuôi và khai thác có giá trị kinh tế và xuất khẩu cao. Bên cạnh 
đó chúng còn là những đối tượng làm thức ăn tươi sống cực kỳ quan trọng của 
các đổi tượng nuôi như cá, tôm, cua..v.v..đồng thời chúng còn là những đối 
tượng góp phần làm sạch môi trường nước và giữ cân bằng sinh thái. Vì vậy 
 5
thuỷ sinh vật đã trở thành tiêu chuẩn để xác định chất lượng năng xuất sinh học 
của vùng nước, đó là yếu tố chính ảnh hưởng tới sản lượng của ngành thuỷ sản. 
 Trong những năm gần đây công nghệ sinh học ngày càng đi sâu vào nhiều 
lĩnh vực khác nhau trong đó có ngành nuôi trồng thuỷ sản. Công nghệ sinh học 
đá tạo ra những giống vật nuôi đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của con 
người mà các phương pháp chọn giống khác không thể làm được như tạo dòng 
đơn tính đực, tạo các cá thể đa bội, cấy gen sinh trưởng vào các đối tượng 
nuôi… 
III. Ứng dụng sinh học trong nuôi trồng thuỷ sản ở giai đoạn hiện nay 
 Nghề nuôi trồng thuỷ sản có lịch sử phát triển từ lâu đời, cho đến nay 
trên thế giới cũng như ở nước ta nó đang là ngành sản xuất chiếm vị trí chiến 
lược quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó không ngừng được phát triển về 
mọi mặt. Vì vậy ứng dụng công nghệ sinh học ngày càng được áp dụng rộng rãi 
trong nhiều mặt của ngành như công nghệ sinh sản nhân tạo, cấy ghép gen trên 
các đối tượng nuôi, duy trì và bảo tồn đa dạng sinh học, bảo quản quỹ gen, giữ 
giống thuần, Công nghệ chuyển giới tính, chuẩn đoán bệnh thủy sản, cải tạo môi 
trường .v.v.. 
 Thế kỷ 21 được các nhà khoa học và kinh tế đánh giá đó là thế kỷ của 
công nghệ sinh học. Với những thành tựu thu được, công nghệ sinh học đã len 
lỏi vào nhiều ngành kinh tế khác nhau trong đó phải kể đến 3 ngành then chốt là 
nông, lâm, ngư nghiệp. Do đó việc nắm bắt các kiến thức sinh học và ứng dụng 
vào thực tiễn sản xuất là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi học viên trong trường Cao 
đẳng thủy sản. 
Phần I 
SINH VẬT HỌC ĐẠI CƯƠNG 
 ------------------------ 
Chương I 
SINH HỌC TẾ BÀO 
THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA TẾ BÀO 
I. Các nguyên tố hoá học có trong tế bào 
 Ngay cả ở những cơ thể đơn giản nhất cũng có tới hàng trăm các phản 
ứng hoá học xảy ra để duy trì sự sống. Vì thế trong tế bào của tất cả các cơ thể 
sinh vật người ta đã tìm thấy 74 nguyên tố, phần lớn các nguyên tố này ở dạng 
tự do trong dịch tế bào và xấp xỉ 30 nguyên tố trong các hợp chất hữu cơ của 
chất nguyên sinh dưới các hình thức liên kết khác nhau, trong đó có 20 nguyên 
tố xuất hiện một cách ổn định trong tế bào (20 nguyên tố này đều nằm trong 110 
nguyên tố đã biết trong tự nhiên và được gọi là các nguyên tố sinh học) trong đó 
có 16 nguyên tố được sử dụng để cấu thành nên các hợp chất sống và những hợp 
chất này tạo nên các cơ thể sống. Thành phần các nguyên tố hoá học ở mọi tế 
 6
bào của sinh vật người ta nhận thấy là giống nhau, song số lượng và tỉ lệ từng 
loại thì khác nhau, nó phụ thuộc vào bản chất di truyền và điều kiên sống của 
mỗi sinh vật. Điều này chứng tỏ một sự liên quan thống nhất giữa sinh giới với 
thế giới vô sinh. Chính nhờ mối liên quan này mà các tế bào có thể tiến hành các 
quá trình trao đổi chất với môi trường bên ngoài để tồn tại và phát triển. 
 Sự phân bố các nguyên tố hoá học trong sinh giới cũng khác xa so với 
trong thế giới vô sinh. Ví dụ Cabon chỉ chiếm 0,03% trong vỏ trái đất nhưng nó 
lại chiếm tới 20% khối lượng của cơ thể sống, nhiều gấp 300 lần so với môi 
trường ngoài. Sắt có mặt trong đất, nước , không khí với hàm lượng nhiều gấp 
300 lần so với trong tế bào sinh giới. Ngược lại, sillic thì lại gặp rất ít trong cơ 
thể sống mặc dù nó chiếm 27,7% ở vỏ trái đất. Căn cứ vào số lượng các nguyên 
tố hoá học có trong tế bào, người ta chia chúng thành 2 nhóm sau: 
 1. Các nguyên tố đa lượng 
 Các nguyên tố đa lượng trong tế bào chiếm tỉ lệ cao khoảng 99,95% 
trọng lượng khô của tế bào, đó là các nguyên tố C,H,O,N,S,P, trong đó C chiến 
khoảng 43-48%, H chiếm khoáng 7%, N khoảng 8-12% trọng lương khô của tế 
bào. Ngoài ra các nguyên tố khác như K, Na, Mg, Ca, Fe, Cl, Si, Al chiếm 
khoảng 0,05-1%. Mội phần nhỏ các nguyên tố này ở dạng liên kết tĩnh điện hoặc 
liên kế hoá trị trong các hợp chất hữu cơ, còn lại ở dạng ion tự do trong dịch tế 
bào. 
 Những nguyên tố đa lượng có vai trò quan trọng trong cấu tạo cũng như 
trong các quá trình trao đổi chất và năng lượng của tế bào . 
 2. Các nguyên tố vi lượng 
 Các nguyên tố vi lượng trong tế bào chỉ chiếm khoảng n.10-5 – n.10-3 % 
trọng lượng khô của tế bào. Các nguyên tố đó là Mo, Cu, Zn, B, Ni, Va, I, Br, 
Co và các nguyên tố siêu vi lượng như Cs, Se, Cd, Ag, Hg, Au, Ra.. chúng 
chiếm ít hơn 10-6 % trọng lượng tế bào. Các nguyên tố này đóng vai trò làm cầu 
nối trong các hợp chất hữu cơ, đặc biệt trong Enzym. Vì vậy, mặc dù cơ thể chỉ 
cầm một số lượng cực nhỏ các nguyên tố này nhưng nếu thiếu chúng thì mọi 
hoạt động của cơ thể sẽ bị ảnh hưởng ở mức độ nhất định. 
Hàm lượng (% trọng lượng khô) của một số nguyên tố hoá học trong thực vật 
(Theo Vinogradov) như sau. 
Nguyên tố Hàm lượng Nuyên tố Hàm lượng 
C 
O 
H 
Si 
N 
S 
P 
K 
Mg 
Ca 
Fe 
18 
70 
10 
0,15 
0,3 
0,05 
0,07 
0,3 
0,07 
0,3 
0,02 
Li 
Mo 
B 
Cu 
Zn 
Co 
Ni 
Cr 
Se 
I 
Hg 
10-5 
2.10-5 
10-4 
20.10-5 
30.10-5 
2.10-5 
15.10-5 
50.10-5 
10-6 
10-5 
10-7 
 7
Na 
AL 
0,02 
0,02 
Ra 0,5.10-7 
II. Các hợp chất trong tế bào 
1. Các loại hợp chất vô cơ có trong tế bào 
 Các hợp chất vô cơ trong tế bào gồm có nước, các loại muối khoáng và 
một số chất đơn giản khác (HCO3 …) 
 1.1 Nước : Phần lớn oxy và hydro có trong cơ thể sống ở dạng 
nước. Nước chiếm khoảng 75% -85% khối lượng tươi của đa số các tế bào. 
Nước tồn tại ở hai dạng, dạng tự do chiếm khoảng 95%, còn lại là nước dưới 
dạng liên kết (ở dạng này các tính năng của nước bị thay đổi). Tuy nhiên tỉ lệ 
nước còn phụ thuộc vào từng loại tế bào, tuổi sinh lý và sự có mặt của nguyên 
liệu khung. Ví dụ như tế bào xương trong các cơ thể không có mô cứng, tỉ lệ 
nước chiếm khoảng 75% còn trong cơ thể người già là khoảng 60%, nhưng 
trong tế bào người ở giai đoạn phôi thai nước chiếm khoảng 90-95% trọng 
lượng tế bào. 
 Cũng trong cơ thể sinh vật, tế bào ở các bộ phận khác nhau thì tỉ lệ nước 
trong chúng cũng khác nhau. Ví dụ trong chất xám của não người nước chiếm 
85% còn trong xương chỉ có 20%. Có thể nói không một tế bào nào trong cơ thể 
sống không có một lượng nước nhất định. 
 Nước là một hợp chất hoá học độc nhất có rất nhiều tính chất quan trọng 
trong hoạt động sống của tế bào. Do phân tử nước có đặc tính phân cực nên nó 
có một vai trò quan trọng trong hoạt động sống của tế bào. Nếu thiếu nước sẽ 
xảy ra hiện tượng khô sinh lý và rối loạn trao đổi chất. Thiếu nước kéo dài sẽ 
làm chết tế bào. 
 1.2. Muối khoáng: Muối khoáng lấy từ môi trường bên ngoài vào, 
trong tế bào chúng chiếm khoảng 2- 6% trọng lượng khô. Muối khoáng trong tế 
bào thường tồn tại ở hai dạng: 
 * Dạng phân ly thành các ion. Các ion mang điện tích dương thì được gọi 
là cation chúng rất cần thiết cho cơ thể sống bao gồm Ca++ , K+ , Na+ , Mg++, 
Fe++ Fe+++ , Cu++, Mg++. v.v.. . các ion mang điện tích âm được gọi là anion như 
H2PO3- , SO22- , HCO3- , Cl -, I-, .v.v Các ion này là nguyên liệu xây dựng các 
hợp chất và đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng khác nhau trong tế bào như 
tạo áp suất thẩm thấu, tạo hiệu điện thế ở màng nguyên sinh chất của tế bào. .. 
 * Dạng liên kết tĩnh điện (Liên kết hoá trị): Nhiều ion vô cơ liên kết với 
các hợp chất hữu cơ tạo nên các thành phần cấu trúc hoặc các chất có hoạt tính 
sinh học đặc hiệu, đáng chú ý nhất là: 
 + S trong thành phần của nhiều loại protein. 
 + P có trong chất nhiễm sắc và trong nhiều loại prôtein khác. 
 + Fe có trong Hemoglobin, trong một số Enzym oxy hoá khử. 
 + Mg có trong diệp lục. 
 + Ca3(PO4)2 là loại hợp chất không tan có trong vỏ cứng của nhuyễn thể 
và trong xương của động vật có xương sống .v.v. 
 Chức năng chủ yếu của các muối khoáng là duy trì áp xuất thẩm thấu và 
duy trì sự cân bằng axít – bazơ trong cơ thể. Trong điều kiện sinh lý bình thường 
 8
của các tế bào thì hàm lượng các chất khoáng luôn luôn giữ ổn định. Khi có sự 
thay đổi đáng kể về hàm lượng khoáng đều dẫn tới rối loạn trao đổi chất, các 
chức năng sinh lý và có thể dẫn tới tử vong. Ví dụ: Giảm Ca++ trong máu sẽ gây 
co giật, khi tỉ lệ K và Na không giữ được bình thường thì co bóp của cơ tim bị 
rối loạn.v.v.. 
 2. Các loại hợp chất hữu cơ có trong tế bào 
 Các hợp chất hữu cơ có trong tế bào là protein, gluxít (Saccarit), lipít, axit 
nucleic, các hợp chất cao năng…và các hợp chất có hoạt tính sinh học cao như 
các loại vitamin, hoocmon, enzym...v.v. Chúng có chức năng quan trọng trong 
hoạt động sống của tế bào. Trong khuôn khổ của giáo trình không xét hết các 
hợp chất hữu cơ có trong tế bào mà chỉ xét một số chất sau đây: 
 2.1 Saccarit (Gluxit hay Hidratcacbon) là hợp chất hữu cơ không 
chứa nitơ. Trong thành phần hoá học của chúng gồm 3 nguyên tố C, H, O với tỉ 
lệ tương ứng 1:2:1, vì vậy Saccarit có công thức tổng quát là Cn(H2O)n. Saccarit 
là hợp chất cơ bản làm nguyên liệu để tổng hợp các chất hữu cơ khác và hô hầp 
nội bào, cảm ứng. Trên màng sinh chất của tế bào có các Saccarit trùng hợp có 
thể giúp các tế bào cùng một kiểu nhận biết ra nhau. Trong tế bào thường gặp: 
 2.1.1 Đường đơn (monosaccarit C6H12O6) như glucose, fructose, 
galactose .v.v. trong đó glucose là loại chất dinh dưỡng không thể thiếu trong 
mọi dạng cơ thể sống. Nó được xem như chất bổ vạn năng cho sinh lý tế bào. 
Bên cạnh đó đường 5 cácbon (pentose) có hai dạng ribose (C5H10O5) và 
đeroxyribose (C5H10O4) là những dạng đường đơn quan trọng, chúng tham gia 
cấu trúc của acit nuclêic. Nhiều phân tử đường đơn bằng phản ứng ngưng tụ 
chúng liên kết với nhau tạo thành các polisaccarit dạng mạch thẳng (như 
xenlulozơ) hay mạch phân nhánh (như tinh bột, glucogen) đây là các chất dự trữ 
năng lượng 
2.1.2 Đường đa (polysaccarit) công thức chung là (C5H10O5)n đó là 
Tinh bội, Cellulose, Hemixenlulose, Pectin, kitin, loại hợp chất này bền vững, 
thường là thành phần cấu trúc của vách tế bào thực vật, nấm men và động vật 
bậc thấp, chức năng chủ yếu là bảo vệ và giữ hình dạng ổn định cho tế bào. 
Riêng Glucogen dễ tan trong nước, nó thường có mặt trong tế bào động vật và 
được dự trữ trong gan, cơ. v.v. còn tinh bột có trong tế bào thực vật và được tích 
luỹ trong lục lạp. Trong vi sinh vật chúng được dự trữ dưới dạng thể vùi. 
 2.2 Lipít Cũng là hợp chất hữu cơ không chứa nitơ, cấu tạo gồm 3 
nguyên tố C, H, O nhưng tỉ lệ thấp hơn so với saccarit, chúng không tan trong 
nước mà chỉ tan trong dung môi hữu cơ không phân cực (ete, clorofooc, 
benzene..). Ngoài ra một số loại lipit khác ngoài C, H, O chùng còn có thêm P, 
hoặc S, hoặc N và axit béo. Trong tế bào thường gặp các nhóm lipit chính là 
Triglyxerit, photpholipit, Steroit và sáp. Trong thực vật chúng được tích luỹ 
trong hạt và quả còn ở động vật chúng được tích luỹ dưới dạng mỡ dưới da, cơ 
hoặc trong ổ bụng. 
 Phần lớn lipit là nguyên liệu, khi bị oxy hoá sẽ cho ra năng lượng cao, vì 
vậy chúng cũng là nguồn dự trữ năng lượng quan trọng. Tuy nhiên quá trình 
phân huỷ 1 phân tử lipit sẽ chậm chạp hơn nhiều so với 1 phân tử gluxit. Trong 
cơ thể khi cần thiết lipit cũng có thể được chuyển hoá thành glucose và gluxit 
 9
khác. Lipit là nguyên liệu tham gia cấu trúc lên màng nguyên sinh chất, màng 
nhân và màng ti, lạp thể, màng lục lạp, hệ mạng lưới nội chất, bộ máy golgi.. 
của tế bào. Ngoài ra lipit còn tham gia tạo thành vỏ tinh hoàn, vỏ buồng trứng và 
cản trở sự thoát hơi nước của cơ thể 
 2.3 Các hợp chất cao năng Các hợp chất cao năng bao gồm các hợp 
chất nucleotit- adenilic (ATP, ADP, AMP), các hợp chất nucleotit-guanilic 
(GTP, GDP, GMP), các dạng nucleotit - xitidilic (XTP, XDP, XMP) và các dạng 
nucleotit - uridilic (UTP, UDP, UMP). Do đặc tính dễ thuỷ phân giải phóng ra 1 
hoặc 2 gốc photphat đồng thời năng lượng được giải phóng ra, năng lượng này 
sẽ được cung cấp cho hoạt động sống của tế bào. Vì vậy chúng là phương tiên 
để trao đổi, chuyển hoá năng lượng trong tế bào. 
 Ví dụ : ATP + H2O ---- ADP + H3PO4 + 31kj/mol. 
 2.4. Chất vận chuyển hydro: NAD (Nicotinamid adenin 
dinucleotid), FAD (Flavin adenin dinucleotid) và NADP (Nicotinamid adenin 
dinucleotid photphat) các hợp chất này có khả năng kết hợp với hydro, chúng 
hoạt động như các Coenzym cho các enzym tham gia lấy hydro từ các cơ chất 
của chúng. 
 2.5 Vitamin : Để đảm bào nhu cầu dinh dưỡng, cơ thể còn cần một 
lượng nhỏ nhất định vitamin. Đối với động vật khác nhau nhu cầu vitamin cũng 
khác nhau. Nhu cầu này có thể thay đổi tuỳ theo trạng thái sinh lý của cơ thể. 
Một số loài sinh vật có khả năng tự tổng hợp vitamin cần thiết cho mình, nhưng 
cũng có loaì sinh vật không có khả năng tổng hợp mà phải lấy từ ngoài vào dưới 
dạng ăn hoặc uống. Đa số các vitamin là thành phần cấu tạo của các Enzyme và 
tham gia quá trình sinh hoá. 
 Vitamin có vai trò quan trọng trong trao đổi chất của mọi cơ thể sinh vật. 
Như vitamin được dùng làm nguyên liệu xây dựng Coenzym đó là một chất đặc 
biệt làm cho một số loại Enzym hoàn thành được chức năng đặc trưng của nó. 
Ví dụ vitamin B cần thiết để tạo NAD, NADP. 
 2.6 Hoocmon là các chất có hoạt tính đặc trưng được tiết ra từ các 
cơ quan hoặc tuyến nội tiết, chúng được tiết trực tiếp vào máu hoặc hệ tuần hoàn 
khác. Cũng như vitamin, hoocmon hoạt động ở nồng độ rất thấp. Lượng 
hoocmon được tiết ra nhiều hay ít tuỳ thuộc vào trạng thái sinh lý và nhu cầu 
của cơ thể. 
 Ở động vật hoocmon có vai trò báo động ( tạo Stress), làm thay đổi hoạt 
động đặc hiệu của tế bào và một số cơ quan nhất định. Ngoài ra chúng còn có 
tác dụng điều hoà quá trình sinh hoá trong cơ thể, ảnh hưởng tới tốc độ tổng hợp 
các hợp chất cao năng, xúc tác của enzym và thay đổi tính thấm của màng tế 
bào. 
 Ở thực vật phytohoocmon (hoocmon thực vật) có ảnh hưởng tới sinh 
trưởng, phát triển, biệt hoá, phân chia tế bào và các hoạt động khác. Hoocmon 
thực vật có hoạt tính thấp hơn so với hoocmon động vật nhưng phạm vi hoạt 
động lại rộng, mỗi hoocmon tham gia trong nhiều quá trình sinh lý khác nhau 
thường có hoạt động trái ngược nhau hoặc làm tăng tác dụng của hoocmon khác. 
Ví dụ hoocmon Giberelin có tác dụng điều hoà và kích thích sinh trưởng mạnh ở 
thân, kích thích và phân chia tế bào, kích thích sự ra hoa và tạo quả .v.v.., 
 10
hoocmon Xitokinin có tác dụng kích thích sự phân chia tế bào, sinh trưởng tế 
bào lá, sinh trưởng chồi chính nhưng kìm hãm sinh trưởng chồi phụ. 
 2.7 Protein chiếm một nửa tổng số chất hữu cơ trong cơ thể sống. 
Tất cả protein trong tế bào đều là đa phân tử, đơn phân là là các axit amin. 
Thành phần hoá học của chúng gồm C, H, O, N, một số loại còn có thêm S, mặc 
dù có chung nhiều nét cơ bản nhưng sự cấu tạo của chúng cực kỳ linh