Tóm tắt:
Tổ chức giao thông hợp lý đóng vai trò quan trong trong nâng cao khả năng thông hành và an
toàn giao thông đường ôtô. Tổ chức giao thông trên giao cắt cùng mức sử dụng nút vòng xuyến có giá
trị nhất định trong những điều kiện đường có mật độ giao thông trung bình. Trên các tuyến đường
ngoài đô thị cũng như các đầu mối giao thông đô thị việc sử dụng nút vòng xuyến đã mang lại hiệu
quả rõ rệt ở nhiều nước trên thế giới.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, ở nhiều cửa ngõ đô thị và các đường ngoài đô thị, nút vòng
xuyến đã được sử dụng tương đối nhiều, tuy nhiên việc sử dụng một cách hiệu quả và hợp lý các
chức năng của nút vòng xuyến cũng còn nhiều điều đáng bàn. Ngoài ra việc nghiên cứu sử dụng
đường hoặc làn dành riêng cho xe đạp ở nút hình xuyến trong điều kiện Việt Nam cũng cần được
quan tâm.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả an toàn giao thông của nút hình xuyến và xem xét trên góc độ an toàn đối với xe đạp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 91
Meeting of the Euro Working Group
Transportation "Intermodality, Sustainability and
Intelligent Transportation Systems", 356-362.
[12]. Сильянов В.В., Справочик по
безопасности дорожного движения. Обзор
мепроприй по безопасности дорожного
движения. Осло – Москва -Хельсинки, 2001. –
753 с.
[13]. Highway capacity manual 2000.
HIỆU QUẢ AN TOÀN GIAO THÔNG CỦA NÚT HÌNH XUYẾN
VÀ XEM XÉT TRÊN GÓC ĐỘ AN TOÀN ĐỐI VỚI XE ĐẠP
TS. Đào Huy Hoàng
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT
TS. Nguyễn Hữu Dũng
Đại học GTVT Hà Nội
Tóm tắt:
Tổ chức giao thông hợp lý đóng vai trò quan trong trong nâng cao khả năng thông hành và an
toàn giao thông đường ôtô. Tổ chức giao thông trên giao cắt cùng mức sử dụng nút vòng xuyến có giá
trị nhất định trong những điều kiện đường có mật độ giao thông trung bình. Trên các tuyến đường
ngoài đô thị cũng như các đầu mối giao thông đô thị việc sử dụng nút vòng xuyến đã mang lại hiệu
quả rõ rệt ở nhiều nước trên thế giới.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, ở nhiều cửa ngõ đô thị và các đường ngoài đô thị, nút vòng
xuyến đã được sử dụng tương đối nhiều, tuy nhiên việc sử dụng một cách hiệu quả và hợp lý các
chức năng của nút vòng xuyến cũng còn nhiều điều đáng bàn. Ngoài ra việc nghiên cứu sử dụng
đường hoặc làn dành riêng cho xe đạp ở nút hình xuyến trong điều kiện Việt Nam cũng cần được
quan tâm.
I. TỔNG QUAN.
Nút vòng xuyến gần như tồn tại cùng với sự
xuất hiện của ôtô. Nút vòng xuyến có nguồn gốc
thiết kế thực tế từ một vòng tròn giao thông lớn
được xây dựng tại Pháp đầu thế kỷ 19. Năm
1903, kiến trúc sư người Pháp ông Eugène
Hénard đã triển khai nguyên tắc nút giao nhau,
nơi mọi người tham gia giao thông (tại thời điểm
đó chủ yếu là ngựa và xe ngựa bốn bánh) phải di
chuyển lưu thông xung quanh một chướng ngại
vật ở giữa. Sau đó, đặc biệt tại Anh, việc áp dụng
nút hình xuyến đã thu được rất nhiều kinh
nghiệm. Vấn đề ưu tiên nhường đường cho giao
thông lưu thông vòng quanh vòng xuyến được
khái quát hóa tại Anh vào năm 1966.
Nút vòng xuyến đã trở nên phổ biến ở Châu
Âu trong suốt các năm 80 và 90 của thế kỷ thứ
hai mươi. Tại Mỹ, việc sử dụng nút vòng xuyến
còn khá hạn chế, mặc dù số lượng đang tăng
dần. Mục đích của bài viết này là đưa ra cái nhìn
tổng quát về tác dụng an toàn của tổ chức giao
thông bằng nút vòng xuyến. Đặc biệt nhấn mạnh
các tác dụng đối với người đi xe đạp.
II. NỘI DUNG.
1. Một số vấn đề chung.
1.1. Hiệu quả an toàn về lý thuyết của nút
hình xuyến.
Có nhiều lý do khác nhau giải thích tại sao
nút vòng xuyến có thể trở nên an toàn hơn các
loại nút giao nhau khác (FHWA, 2000; Elvik &
Vaa, 2004). Nhìn chung, chúng có thể được chia
ra thành hai nhóm: Hiệu quả về tốc độ và hiệu
quả đối với xung đột giữa các phương tiện tham
gia giao thông.
Hiệu quả về tốc độ:
- Tốc độ của các phương tiện khác nhau tại
vòng xuyến rất chậm và đồng nhất. Điều này có
nghĩa là các tốc độ có liên quan (tốc độ của
người tham gia giao thông với nhau) là chậm.
Đối với người tham gia giao thông dễ bị tổn
thương(yếu thế) như người đi xe đạp, điều này là
khác biệt đáng kể so với trường hợp tại các kiểu
nút giao nhau khác thường có rất nhiều loại tốc
độ khác nhau.
- Các phương tiện giao thông khi đi vào khu
vực vòng xuyến bị buộc phải giảm tốc độ, do sự
thay đổi vị trí bên cạnh mà phương tiện phải thực
hiện. Tốc độ dẫn theo đó thấp và tạo thời gian
cho người tham gia giao thông quan sát tình hình
và dự đoán được các va chạm có khả năng xảy
ra.
Hiệu quả về xung đột giữa các người tham
gia giao thông:
- Vòng xuyến điều chỉnh hoặc loại bỏ các
điểm có khả năng gây xung đột giữa các phương
tiện tham gia giao thông. Đặc biệt vòng xuyến
loại bỏ các xung đột nguy hiểm tiềm tàng, ví dụ
đụng độ ở góc vuông 90 độ hoặc va chạm trực
diện.
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
92 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
- Tất cả các phương tiện giao thông ở vòng
xuyến đều là giao thông một chiều. Người giao
thông chỉ cần nhìn vào chiều giao thông đến từ
một hướng và chờ một khoảng cách thời gian
thích hợp để đi vào chỗ vòng xuyến.
- Nút vòng xuyến loại trừ các phương tiện
giao thông chuyển động rẽ sang bên trái (ở các
nước có thói quen lái xe bên phải).
- Phương tiện giao thông đi vào vòng xuyến
phải nhường quyền ưu tiên cho lưu thông đang
tuần hoàn. Đó là lý do các phương tiện giao
thông khi tiếp cận sẽ thận trọng hơn khi đi vào
vòng xuyến.
Hình 1. Các xung đột phương tiện giao thông ở
nút vòng xuyến một làn xe. Nguồn FHWA (2000).
Trên một nút vòng xuyến, người tham gia
giao thông khi đi qua nút đã được loại bỏ các
xung đột có thể xảy ra. Số lượng các điểm nhập
hoặc tách thì chỉ bằng một nửa số lượng các
điểm xảy ra xung đột tại các nút giao cắt ngã tư
thông thường. Xét về tổng thể, số lượng các
điểm xung đột ở nút vòng xuyến 1 làn xe đã giảm
từ 32 xuống còn 8 điểm nếu so sánh với nút giao
thông thường.
Bên cạnh xung đột với các phương tiện giao
thông đường bộ khác, các loại xung đột khác có
thể xảy ra. Ví dụ, đảo tròn trung tâm vòng xuyến
xuất hiện như là một trở ngại có thể làm tăng số
vụ tai nạn cho các phương tiện giao thông.
Yếu tố an toàn trên các vòng xuyến hai làn
xe hơi khác nhau. Nếu so với vòng xuyến có một
làn thì vòng xuyến có làn đôi có thêm các điểm
xung đột do sự thay đổi của các làn đường tại
vòng xuyến và do gấp đôi làn xe đi vào và đi ra.
Đối với người đi bộ, vòng xuyến giảm một số
lượng nhất định các xung đột tiềm năng xảy ra
so với xung đột trên các giao cắt thông thường:
Xung đột giữa các loại xe tốc độ cao và
người đi bộ băng qua đường.
Xung đột giữa các xe rẽ sang phải và
người đi bộ băng qua đường (Trên đèn báo hiệu
cũng như các nút giao thông khác).
Xung đột giữa các xe rẽ sang phải và
người đi bộ băng qua đường (Trên đèn báo hiệu
cũng như các nút giao thông khác).
Đối với người đi xe đạp hơi khác nhau. Số
lượng các xung đột với người đi xe đạp phụ
thuộc vào việc thiết kế vòng xuyến. Nếu không
có các điều kiện riêng cho xe đạp, người đi xe
đạp bị đi lẫn vào các phương tiện giao thông
khác trên vòng xuyến. Do đó họ cũng chịu các
xung đột giao thông như các phương tiện giao
thông khác (phương tiện có động cơ). Tuy nhiên,
số lượng các xung đột có thể cao hơn so với các
phương tiện khác, do sự khác biệt rõ rệt hơn về
tốc độ giữa người đi xe đạp và người sử dụng xe
cơ giới đường bộ và cũng do hạn chế tầm nhìn
của người đi xe đạp so với xe có động cơ.
(Brown, 1995; FHWA, 2000).
1.2. Phân loại hiệu quả.
Các hiệu quả an toàn của vòng xuyến có thể
được mô tả dạng biểu đồ như là một chuỗi các
sự kiện, theo hình 2. Trong bước đầu tiên (1) một
giao cắt có thể được cải tạo thành vòng xuyến
hoặc dạng giao cắt khác, mà không tiếp tục xem
xét ở đây. Trong nhóm các vòng xuyến, dạng
thiết kế các vòng xuyến thay đổi nhiều có thể
thực hiện qua các tính năng hình học như: Bán
kính đảo tròn trung tâm, độ cong của các làn đi
vào và đi ra, số làn xe, chiều rộng làn đường, loại
phương tiện đạp xe, vạch sơn đường và chiếu
sáng.
Hình 2. Vòng xuyến và an toàn giao thông: Chuỗi
các sự kiện.
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 93
Trong bước thứ hai (2) sẽ có một số kết quả
về tốc độ và xung đột (như đã đề cập ở trên).
Bên cạnh những tác động này có thể có các ảnh
hưởng nhất định khác đến hoạt động giao thông,
năng lực giao cắt, khí thải, thiết kế đô thị vv ...
Các ảnh hưởng sau này không được tiếp tục
xem xét trong bài viết này.
Thay đổi tốc độ và xung đột dẫn đến các tác
động xảy ra tai nạn (3), đó là bước 3. Bước thứ
tư là những hậu quả tai nạn, chúng có thể được
chia thành tai nạn có thương tích và tai nạn
không có thương tích (4). Cuối cùng, các tác
động có thể là không đồng đều cho tất cả
phương tiện giao thông đường bộ được thể hiện
trong bước 5.
2. Kết quả nghiên cứu về hiệu quả an
toàn của nút vòng xuyến đối với tất cả các
phƣơng tiện giao thông.
2.1. Lựa chọn phương pháp nghiên cứu.
Hầu hết kỹ thuật chung trong việc phân tích
an toàn đường phố nhằm đánh giá hiệu quả an
toàn của một phương án xử lý là sự quan sát
trước và nghiên cứu sau. Trong một cuộc quan
sát trước và sau khi nghiên cứu tai nạn tần suất
tai nạn có thể xảy ra trước và sau khi đo lường
chắc chắn (như thay đổi thiết kế đường phố)
được so sánh với nhau. Tuy nhiên, việc này chỉ
sai sót khi so sánh tần suất tai nạn trước và sau
khi đo lường, từ đó có 3 kết quả trùng khớp cần
được đưa ra xem xét. (Hauer, 1997):
1. Tai nạn là một đặc tính ngẫu nhiên. Ngay
cả khi không có biện pháp an toàn được áp dụng
cho một vị trí cụ thể và các đặc tính của giao
thông vẫn như cũ, thì sự dao động về số lượng
các vụ tai nạn vẫn sẽ xảy ra. Sự dao động này
chỉ là một sự ngẫu nhiên. Để phân tích tác động
an toàn đúng cách, người ta thường nên không
chỉ dựa vào việc đếm số lượng tai nạn (ví dụ như
số vụ tai nạn trong một năm). Mà điều cần thiết là
cần đánh giá tác động, cũng như xem xét số
lượng tai nạn xảy ra trước khi áp dụng các biện
pháp an toàn so với số lượng tai nạn sau khi áp
dụng các biện pháp an toàn.
2. Bởi vì giao thông không phải là một môi
trường được quản lý chặt chẽ, nên luôn luôn có
những khuynh hướng chung có thể ảnh hưởng
đến số lượng tai nạn trong khu vực khi khảo sát.
Ví dụ, sự thay đổi trong lưu lượng giao thông,
hay số lượng tăng hay giảm của lái xe trong tình
trạng say rượu; điều chỉnh mức độ thi hành, luật
pháp Những khuynh hướng chung này có thể
dẫn đến sự thay đổi về số lượng tai nạn trên một
vị trí, ngay cả khi không có biện pháp đặc biệt
nào được áp dụng. Để phân biệt tác động của
một biện pháp kỹ thuật, người ta nên tách tác
động của chính các biện pháp với tác động của
các khuynh hướng chung.
3. Các cơ quan chức năng đường phố có
khuynh hướng xử lý các vị trí hay địa điểm không
mang tính chất ngẫu nhiên. Họ sử dụng hệ phân
cấp, và thường dựa vào tần suất tai nạn hoặc là
tỉ lệ tai nạn hay xảy ra để quyết định nơi nào cần
xử lý đặc biệt. Vì thế, chúng ta không nên xử lý
riêng biệt các địa điểm nào (ví dụ vòng xuyến)
như là một ví dụ ngẫu nhiên vì ví dụ này gồm có
nhiều địa điểm được chọn lọc dựa trên ghi nhận
về tai nạn xảy ra. Khi chúng ta hiểu về đặc tính
ngẫu nhiên của tai nạn, có thể dự kiến rằng số
lượng tai nạn theo loại địa hình đó sẽ giảm đi – ít
nhất là một phần nào đó dù chưa có biện pháp
cụ thể. Hiệu quả này gọi là “suy thoái phương
pháp”. Bởi vì hiệu quả này cũng có thể xảy ra ở
những vị trí khi xử lý, rõ ràng là việc thay đổi số
lượng tai nạn không nên cho là đã toàn vẹn đối
với biện pháp xử lý. Trong trường hợp này một
phần nhất định của hiệu quả phải hòa hợp với
các yếu tố cơ hội và cũng sẽ xảy ra nếu không
có biện pháp xử lý.
Để tránh đánh giá sai, một biện pháp thông
thường “quan sát trước - nghiên cứu sau” cần
tính đến các hiệu quả phân tích ở trên. Nếu
không các kết quả nghiên cứu ít có tính tin cậy.
Biện pháp “quan sát trước - nghiên cứu sau” đơn
giản mà không kiểm soát các yếu tố trùng khớp
sẽ không bao giờ đáng tin (Elvik, 2002; Hakkert
& Gitelman, 2004). Đúng hơn là chỉ những
nghiên cứu kiểm soát chắc chắn các yếu tố trùng
khớp mới đáng tin cậy. Thật không may điều này
không phải luôn luôn có thể.
2.2. Hiệu quả của địa điểm giao cắt.
Các cơ quan chức năng đường phố có xu
hướng đổi các dạng đặc biệt của điểm giao cắt
thành nút vòng xuyến. Quyết định xây dựng vòng
xuyến có thể phụ thuộc vào số lượng các ngả
đường, lưu lượng giao thông, các loại phương
tiện tham gia giao thông (xe hơi, xe tải, xe
đạp), vị trí địa lý, các kiểu tai nạn đã xảy ra
Một số nghiên cứu cho rằng số lượng nạn
nhân giảm nhiều hơn ở khu vực ngoài vòng
xuyến hơn là khu vực nằm bên trong vòng xuyến
(Schoon & van Minnen năm 1993; MET, 2003).
Việc giảm hơn số vụ tai nạn thương tích ở điểm
giao cắt mà không được kiểm soát trước khi
chúng được chuyển thành vòng xuyến, hơn là ở
điểm giao cắt có đèn báo. (Schoon & Minnen
van, 1993; Elvik, 2003). Tuy nhiên, những hiệu
quả được trích dẫn của các tác giả này là không
chắc chắn. Việc chuyển đổi nút giao thông thành
vòng xuyến cũng có thể tác động về tai nạn tại
ngã tư nhiều hơn đối với nút giao thông ngã ba,
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
94 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
mặc dù đối với chúng, hiệu quả này là chắc chắn
(Elvik, 2003).
2.3. Hiệu quả về tốc độ.
Những hiệu quả giả định lý thuyết về tốc độ
đã được chứng minh bằng nghiên cứu. Tốc độ
xe hơi trung bình trên vòng xuyến giảm đáng kể,
so với tình trạng này trước khi vòng xuyến được
xây dựng. Tốc độ giảm hơn khi đo gần với chỗ
vòng xuyến (Hydén & Várhelyi, 2000; van
Minnen, 1994). Đối với khoảng cách trên 300 mét
không có hiệu quả tốc độ nào có thể đo được.
Tốc độ tiếp cận của xe ô tô chịu ảnh hưởng cao
bởi sự thế chỗ bắt buộc của vòng xuyến. Việc
thế chỗ các bên được xác định bởi đường kính
của các hòn đảo trung tâm vòng xuyến và góc
của làn đường tiếp cận. Hiệu quả tốc độ giảm khi
đã đủ độ rộng tại độ võng 2 mét vòng xuyến
(Hydén & Várhelyi, 2000).
2.4. Hiệu quả về xung đột giao thông.
Số lượng xung đột giao thông trên vòng
xuyến dường như tăng hơn là giảm (van Minnen,
1994). Tuy nhiên, tác giả này cho rằng xung đột
ít nghiêm trọng hơn trước. Số lượng xung đột với
người giao thông dễ bị tổn thương (người đi bộ
và xe đạp) hầu như không thay đổi (van Minnen,
1994). Các nghiên cứu khác đã báo cáo một hiện
trạng về số lượng các cuộc xung đột giữa xe ô
tô, nhưng ghi nhận trái ngược về việc giảm số
lượng các xung đột, cả giữa người xe đạp và xe
hơi cũng như giữa người đi bộ và xe ô tô (Hydén
& Várhelyi, 2000). Về lý thuyết, giảm các điểm
xung đột (ví dụ từ 32 điểm còn 8 điểm cho vòng
xuyến ở ngã tư) những kết quả này là đáng ngạc
nhiên. Ít nhất điều này có nghĩa rằng số lượng
xung đột không phải là tỷ lệ thuận với số điểm
xung đột. Vì số lượng các điểm xung đột về mặt
lý thuyết sẽ giảm từ 32 còn 8 điểm, có cùng số
xung đột sau khi xây dựng vòng xuyến do đó, có
thể có nghĩa là số lượng xung đột trên mỗi điểm
xung đột bình quân nhân với bốn.
Theo van Minnen (1994) người tham gia
giao thông cũng phải tuân thủ các quy tắc ưu tiên
về vòng xuyến, miễn là lưu lượng giao thông đi
vào vòng xuyến không phải là quá lớn. Khi lưu
lượng cao hơn, số lượng vi phạm đi ngược các
quy tắc ưu tiên đã tăng lên đáng kể.
2.5. Hiệu quả về tai nạn gây thương tích.
Trong những thập kỷ qua có khá nhiều
nghiên cứu đã được thực hiện về hiệu quả an
toàn khi giới thiệu về vòng xuyến ở các nút giao
thông. Mặc dù con số và tỷ lệ phần trăm thường
xuyên thay đổi nhiều, có khá nhiều nghiên cứu
cho thấy sự giảm mạnh tai nạn gây thương tích
sau khi xây dựng vòng xuyến (Green, 1977, trích
dẫn trong Brown, 1995; Persaud et al, 2001;
MET, 2003; Elvik, 2003; De Brabander et al,
2005). Sự sút giảm nhiều đối với tai nạn gây tử
vong và thương tích nghiêm trọng hơn là so với
tai nạn với chỉ bị thương nhẹ (Green, 1977, trích
dẫn trong Brown, 1995; Persaud et al, 2001;
MET, 2003; Elvik, 2003; De Brabander et al,
2005) .
Tồn tại một mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tốc
độ đo được và số lượng các tai nạn trên một
vòng xuyến. Số người bị thương thậm chí có một
mối quan hệ bậc hai với tốc độ. Hơn nữa đã đo
được một mối liên hệ tích cực giữa lưu lượng
giao thông và số lượng các tai nạn (Brüde &
Larsson, 2000).
2.6. Hiệu quả về tai nạn không gây
thương tích.
Có các cuộc thảo luận về hiệu quả của vòng
xuyến với tai nạn chỉ gây thiệt hại về tài sản. Một
biện pháp thực hiện trước - nghiên cứu sau về
23 vòng xuyến ở Mỹ (Persaud et al, 2001) cho
thấy việc giảm đáng kể hiệu quả vòng xuyến trên
tất cả các loại tai nạn (thiệt hại tài sản và tai nạn
thương tích). Tuy nhiên, các tác giả khác kết luận
rằng hiệu quả trung bình của vòng xuyến về tai
nạn không gây thương tích là không chắc chắn
(Elvik, năm 2003, dựa trên phân tích của 28 lượt
nghiên cứu).
2.7. Hiệu quả về các dạng khác nhau của
phương tiện giao thông.
Không có nhiều nghiên cứu được thực hiện
về hiệu quả an toàn của vòng xuyến đối với các
dạng khác nhau của phương tiện đường bộ.
Theo Schoon & van Minnen (1993) hiệu quả an
toàn của các vòng xuyến không phân bổ đồng
đều đối với các dạng phương tiện giao thông:
Hiệu quả an toàn cho người sử dụng xe hơi và
người đi bộ tốt hơn nhiều so với hiệu quả an
toàn đối với người đi xe đạp và xe gắn máy. Tuy
nhiên vẫn có những hiệu quả an toàn thuận lợi
cho người đi xe gắn máy và xe đạp.
Ngược lại, Hydén & Várhelyi (2000) dựa trên
các quan sát xung đột đã nhận thấy sự giảm
nhiều nguy cơ tai nạn gây thương tích cho người
đi xe đạp và người đi bộ, trong khi họ không thấy
việc giảm nguy cơ gây tai nạn cho người đi xe
hơi.
3. Thiết kế lối dành cho ngƣời đi xe đạp ở
nút vòng xuyến.
Đối với các loại phương tiện giao thông khác
nhau, thì vòng xuyến cũng như các dạng nút giao
thông khác cũng có thể cho các hiệu quả an toàn
khác nhau. Riêng đối với xe đạp có một số kết
quả nghiên cứu cụ thể đáng thú vị. Bằng sự hiểu
biết, chúng tôi bắt đầu với sự khái quát các thiết
kế khác nhau của điều kiện giao thông cho người
đi xe đạp tại vòng xuyến.
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 95
Có một số lựa chọn thay thế để xử lý với vấn
đề người đi xe đạp tại vòng xuyến. Hầu hết các
biện pháp xử lý cơ bản là kết hợp chúng với giao
thông cơ giới. Khi đã có làn đường dành cho xe
đạp, chúng có thể được xây dựng bên cạnh các
tuyến xe hoặc trên một khoảng cách nhất định.
Hơn nữa trong bài viết này, 4 phương án được
xem xét: Giao thông hỗn hợp, làn xe đạp liền kề,
làn xe đạp phân cách có ưu tiên và không có ưu
tiên cho xe đạp khi băng qua.
một hướng như là người đi bộ, có nghĩa là để
cho anh ta xuống xe đạp của
có thể loại trừ bất kỳ xung đột giữa người đi xe
đạp và người sử dụng cơ giới đường bộ. Hai lựa
chọn thay thế này không được tiếp tục xem xét
trong bài viết.
Phương án 1: Giao thông hỗn hợp.
Hình 3. Vòng xuyến với giao thông hỗn hợp.
Nguồn CROW (1998).
Hầu hết các biện pháp cơ bản là xem người
đi xe đạp như là một loại phương tiện và để họ đi
vòng quanh vòng xuyến như các lái xe hơi phải
làm. Do đó các tài xế xe hơi và người đi xe đạp
lẫn lộn vào nhau, trường hợp này được gọi là
“giải pháp giao thông hỗn hợp” (xem hình. 3).
Phương án 2: Làn xe đạp liền kề.
Làn xe đạp cũng có thể được kẻ vạch trên
vòng xuyến, liền kề với tuyến xe trên đường. Khi
xây dựng theo cách này xe đạp và phương tiện
cơ giới có lối đi riêng của họ (xem hình 4), mặc
dù không có hàng rào vật lý giữa các xe cơ giới
và xe đạp.
Người ta cho rằng có một nguy cơ xung đột
rất lớn giữa cá
đang đi bên
cạnh chúng.
Hình 4. Vòng xuyến với làn xe đạp liền kề.
Nguồn: CROW (1998).
Phương án 3: Làn đường phân cách
cho xe đạp – ưu tiên cho người đi xe đạp.
Giải pháp thứ ba là xây dựng một đường xe
đạp phân cách tách ra từ chỗ đường vòng. Trong
một hoặc nhiều làn xe khi lưu thông trên vòng
xuyến. Do đó số lượng các cuộc xung đột giữa
xe đạp và xe cơ giới sẽ giảm vì cả người đi xe
đạp cũng như tài xế xe cơ giới ý thức tốt hơn về
sự hiện diện của nhau khi các làn đường cong di
chuyển của họ trực giao hơn.
Hình 5. Vòng xuyến với làn xe đạp riêng. Ưu tiên
cho người đi xe đạp. Nguồn: CROW (1998).
Cần phải xem xét một cách cụ thể các quy
tắc ưu tiên tại vòng xuyến. Chỗ mà thường chấp
nhận cho lưu thông quanh vòng xuyến ưu tiên
phương tiện tiếp cận vòng xuyến ưu tiên bên
phải, đến nay vẫn chưa rõ ràng đâu là tốt cho
người đi xe đạp.
Khi thiết kế vòng xuyến theo dạng giao
thông hỗn hợp hay vòn