Tóm tắt. Cấu trúc tinh thể, hình thái bề mặt và tính chất quang của vật liệu
composite ZnO-CuO chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa đã được khảo sát
bằng các phép đo: nhiễu xạ tia X, hiển vi điện tử quét hiệu ứng trường (FESEM),
phổ hấp thụ. Các kết quả nhận được cho thấy vật liệu tổ hợp của hai pha ZnO và
CuO đã được chế tạo. Hiệu ứng quang xúc tác của composite ZnO-CuO được tiến
hành với dung dịch xanh metylen dưới bức xạ đèn Xe. Dung dịch Xanh metylen
hoàn toàn mất màu sau 180 phút quang xúc tác. Vật liệu composite ZnO-CuO có
nhiều triển vọng ứng dụng trong xử lí môi trường.
Ảnh hưởng của độ pH trong dung dịch lên sự mất màu của Xanh metylen cũng
được nghiên cứu để giải thích quá trình động học của mất màu Xanh metylen. Kết
quả chỉ ra rằng độ pH là một hệ số then chốt làm mất màu Xanh metylen sau đó
làm thay đổi mức độ axit của bề mặt chất xúc tác làm ảnh hưởng tới hoạt động
quang xúc tác. Khi độ pH nhỏ hơn 3 phản ứng quang xúc tác hầu như không xảy
ra. Độ pH tốt nhất cho phản ứng quang xúc tác là pH = 11:
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát hiệu ứng quang xúc tác của composite ZnO-CuO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Interdisciplinary Sci., 2014, Vol. 59, No. 1A, pp. 29-36
This paper is available online at
KHẢO SÁT HIỆU ỨNG QUANG XÚC TÁC CỦA COMPOSITE ZnO-CuO
Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Đăng Phú,
Vũ Minh Nguyên và Đỗ Danh Bích
Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Cấu trúc tinh thể, hình thái bề mặt và tính chất quang của vật liệu
composite ZnO-CuO chế tạo bằng phương pháp đồng kết tủa đã được khảo sát
bằng các phép đo: nhiễu xạ tia X, hiển vi điện tử quét hiệu ứng trường (FESEM),
phổ hấp thụ. Các kết quả nhận được cho thấy vật liệu tổ hợp của hai pha ZnO và
CuO đã được chế tạo. Hiệu ứng quang xúc tác của composite ZnO-CuO được tiến
hành với dung dịch xanh metylen dưới bức xạ đèn Xe. Dung dịch Xanh metylen
hoàn toàn mất màu sau 180 phút quang xúc tác. Vật liệu composite ZnO-CuO có
nhiều triển vọng ứng dụng trong xử lí môi trường.
Ảnh hưởng của độ pH trong dung dịch lên sự mất màu của Xanh metylen cũng
được nghiên cứu để giải thích quá trình động học của mất màu Xanh metylen. Kết
quả chỉ ra rằng độ pH là một hệ số then chốt làm mất màu Xanh metylen sau đó
làm thay đổi mức độ axit của bề mặt chất xúc tác làm ảnh hưởng tới hoạt động
quang xúc tác. Khi độ pH nhỏ hơn 3 phản ứng quang xúc tác hầu như không xảy
ra. Độ pH tốt nhất cho phản ứng quang xúc tác là pH = 11:
Từ khóa: Composite ZnO-CuO, hiệu ứng quang xúc tác
1. Mở đầu
ZnO là hợp chất bán dẫn thuộc nhóm AIIBIV có độ rộng vùng cấm lớn (cỡ 3.37 eV)
và là chất quang xúc tác mạnh, có thể dùng để phân hủy các hợp chất hữu cơ độc hại và
diệt khuẩn trong môi trường nước và không khí [1-3]. Nhưng việc ứng dụng ZnO trong xử
lí môi trường còn hạn chế do khả năng quang xúc tác chỉ xảy ra dưới bức xạ tử ngoại [4],
mà bức xạ này chỉ chiếm 5% trong bức xạ Mặt Trời. Đã có nhiều công trình nghiên cứu
với mục đích tăng khả năng quang xúc tác của ZnO trong vùng ánh sáng khả kiến như
thay đổi kích thước hạt, tăng tỉ lệ số nguyên tử trên bề mặt hạt, tổ hợp với bán dẫn khác để
làm giảm độ rộng vùng cấm hiệu dụng của vật liệu. Trong các phương pháp trên thì việc tổ
hợp hai bán dẫn khác loại để tạo ra lớp chuyển tiếp dị thể tạo ra vật liệu composite hấp thụ
trong dải phổ khả kiến là phương pháp đầy hứa hẹn. Một số nghiên cứu đã phát hiện khi
Liên hệ: Nguyễn Thị Hương, e-mail: nguyenhuong2710@gmail.com.
29
Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Đăng Phú, Vũ Minh Nguyên, Đỗ Danh Bích
thêm bán dẫn khác vào ZnO thì bề rộng vùng cấm hiệu dụng giảm, vùng hấp thụ mở rộng
sang vùng ánh sáng nhìn thấy và kết quả hoạt động quang xúc tác hiệu quả hơn. Có nhiều
bán dẫn oxit kim loại đã được tổ hợp với ZnO như SnO2;Fe2O3;WO3;CdS;ZnS; : : :
trong đó có CuO [6-8].
CuO là vật liệu bán dẫn loại p có vùng cấm hẹp (Eg=1,2 eV), khi tổ hợp với ZnO
có thể tạo ra lớp chuyển tiếp dị thể p-n [9, 10]. Nhờ lớp chuyển tiếp dị thể p-n của vật liệu
composite ZnO-CuO, các quá trình truyền hạt dẫn giữa hai chất bán dẫn xảy ra, dẫn đến
độ rộng vùng cấm hiệu dụng giảm [11,12]. Một trong các ứng dụng của vật liệu composite
ZnO-CuO là hiệu ứng quang xúc tác có tác dụng khử màu của xanh metylen. Kết quả thực
nghiệm đã chứng tỏ nanocomposite ZnO-CuO có khả năng hoạt động quang xúc tác trong
vùng ánh sáng khả kiến.
Trong báo cáo này, nanocomposite ZnO-CuO được chế tạo bằng phương pháp đồng
kết tủa, mẫu chế tạo có tác dụng quang xúc tác tốt khi được chiếu xạ bằng đèn xenon.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thực nghiệm
Chế tạo mẫu ZnO-CuO composite
Hoá chất sử dụng: ZnCl2;CuSO4:5H2O;NaOH:
Thực nghiệm: Hòa tan ZnCl2 và NaOH trong nước cất ở ở nhiệt độ 95◦C trong 7,5
giờ với sự trợ giúp của máy khuấy từ. Sau đó, dung dịch được quay li tâm và rung siêu âm
để thu được hạt nano ZnO.
Dung dịch CuSO4 được chế tạo từ CuSO4:5H2O hòa tan trong nước cất.
Hỗn hợp hai dung dịch ZnO và CuSO4 được rung siêu âm trong 45ph và khuấy
từ ở nhiệt độ phòng trong 4h. Độ pH được điều chỉnh nhờ dung dịch NaOH . Sau đó,
mẫu được quay li tâm và rung siêu âm 5 - 6 lần. Sau đó cô cạn kết tủa, ta thu được
ZnO-CuO composite. Việc chế tạo mẫu được tiến hành nhiều lần với những tỉ lệ thành
phần ZnO-CuO khác nhau để thu được các nanocomposite ZnO-CuO với các tỉ lệ CuO
tăng dần: 1:50; 1:40; 1:30; 1:20; 1:10.
Quang xúc tác composite ZnO-CuO
Hoá chất sử dụng: Composite ZnO-CuO, dung dịch xanh metylen
(C16H18N3SCl;MB) 100ppm.
- Cân 30 mg ZnO-CuO cho vào 50 mL nước cất. Rung siêu âm 30 phút.
- Cho 50 mL dung dịch (dd) MB 100 ppm vào 50 mL dd ZnO-CuO.
Bắt đầu chiếu đèn:
Sau 10 phút, 30 phút, 60 phút, 90 phút, 120 phút, 150 phút, 180 phút lấy ra 8 mL
dung dịch đem quay li tâm sau đó đem đi đo.
30
Khảo sát hiệu ứng quang xúc tác của composite ZnO-CuO
2.2. Kết quả và thảo luận
2.2.1. Khảo sát nhiễu xạ tia X
Hình 1. Giản đồ nhiễu xạ tia X
của composite ZnO-CuO
Giản đồ nhiễu xạ tia X của composite
ZnO-CuO với các tỉ lệ CuO khác nhau cho thấy với
mẫu ZnO tinh khiết chỉ xuất hiện các đỉnh nhiễu xạ
của ZnO: Khi tăng dần thành phần CuO cho đến tỉ
lệ 1:40 bắt đầu xuất hiện đỉnh nhiễu xạ (110) của
CuO: Tiếp tục tăng tỉ phần CuO cường độ nhiễu xạ
của ZnO giảm dần, cường độ nhiễu xạ CuO tăng
lên. Đây là bằng chứng về sự tồn tại đồng thời của
hai pha ZnO và CuO trong mẫu. ZnO có cấu trúc
lục giác Wurtzite và CuO kết tinh ở pha cấu trúc
monoclinic.
Bảng 1. Hằng số mạng của ZnO−CuO lấy từ thẻ chuẩn
a (A˚) b (A˚) c (A˚)
ZnO (PDF#361451) 3,249 3,249 5,206
CuO (PDF#450937) 4,685 3,425 5,130
Bảng 2. Hằng số mạng của ZnO−CuO tính toán dựa vào giản đồ nhiễu xạ
a (A˚) b (A˚) c (A˚)
ZnO 3,2489±0,0004 3,2489±0,0004 5,0255±0,0005
CuO 4.6881±0,0002 3,4271±0,0002 5,1266±0,0003
Từ giản đồ nhiễu xạ tia X, sử dụng biểu thức
Scherrer giá trị kích thước hạt tinh thể trung bình của ZnO và CuO được tính tương ứng
khoảng 19,3 nm và 14,6 nm.
2.2.2. Kết quả đo FE-SEM
Hình 2. Ảnh FE-SEM của các mẫu ZnO (a), CuO (b) và ZnO-CuO tỉ lệ 1:20 (c)
Hình 2 là kết quả ảnh SEM của các mẫu ZnO;CuO và ZnO-CuO tỉ lệ 1:20. Kết
quả cho thấy hình thái học của các mẫu: ZnO dạng chủ yếu là hình thanh, trong khi đó
CuO lại có dạng các tấm lá. Mẫu ZnO-CuO dường như có cả dạng thanh và dạng lá. Cả
31
Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Đăng Phú, Vũ Minh Nguyên, Đỗ Danh Bích
hai dạng của ZnO và CuO gắn kết với nhau trong mẫu thể hiện đây là vật liệu composite
ZnO-CuO và hai bán dẫn khác loại này có sự quan hệ tương hỗ.
2.2.3. Phổ hấp thụ
Phổ hấp thụ UV-vis của các mẫu ZnO-CuO trên Hình 3 cho thấy ZnO có bờ hấp
thụ ở vùng từ ngoại. Khi thêm thành phần CuO trong phổ xuất hiện thêm một đỉnh hấp
thụ rộng vùng phổ nhìn thấy. Đỉnh hấp thụ này tăng với thành phần CuO trong mẫu tăng.
Kết quả này cho thấy vật liệu tổ hợp ZnO-CuO có hai vùng phổ hấp thụ ở khoảng 400 nm
và 550 nm. Do composite ZnO-CuO có quá trình truyền hạt dẫn giữa hai bán dẫn, dẫn tới
quang xúc tác xảy ra khi kích thích ánh sáng vùng nhìn thấy.
Hình 3. Phổ hấp thụ của các
mẫu composite
Hình 4. Phổ FTIR của các mẫu
ZnO-CuO composite
2.2.4. Phổ FTIR
Đối với tất cả các mẫu trên phổ FTIR quan sát được dải hấp thụ mạnh trải rộng
trong khoảng từ 400 đến 700 cm−1. Nhóm nghiên cứu [5] đã công bố: ở xung quanh vị
trí 435 và 490 cm−1, các đỉnh hấp thụ có nguồn gốc từ dao động của Zn-O trong ZnO.
Nghiên cứu phổ FTIR của CuO, A. B. Kuz’menko và cộng sự [11] cho thấy vị trí đỉnh
hấp thụ của liên kết Cu-O trong CuO có thể thay đổi từ 432,3 cm−1 đến 603,3 cm−1
phụ thuộc vào mode dao động của CuO. Vì vậy đóng góp cho đỉnh hấp thụ xung quanh
500 cm−1 do dao động của liên kết Cu-O. Dải hấp thụ rộng xung quanh 3500 cm−1 ứng
với dao động của nhóm O-H của hơi nước trong mẫu có nguồn gốc từ sự hút ẩm hơi nước
trong không khí.
Kết quả phân tích phổ FTIR xác nhận các liên kết Zn-O, Cu-O và O-H tồn tại trong
mẫu composite ZnO-CuO.
2.2.5. Quang xúc tác
Xanh metylen (MB) có các đỉnh hấp thụ tại các vị trí 660 nm và 610.290 nm. Đỉnh
660 nm là đỉnh tương ứng với vòng benzen liên kết với nguyên tố S và N hấp thụ ánh sáng
màu xanh. Hiệu ứng quang xúc tác của vật liệu với MB theo thời gian được khảo sát thông
32
Khảo sát hiệu ứng quang xúc tác của composite ZnO-CuO
qua phép đo phổ hấp thụ.
Hình 5. Khảo sát quang xúc tác của
mẫu ZnO-CuO
Mẫu nanocomposite ZnO-CuO tỉ lệ
1:10 được sử dụng để khảo sát hiệu ứng quang
xúc tác. Phổ hấp thụ của MB dưới tác dụng
quang xúc tác của composite ZnO-CuO dưới
ánh sáng đèn xenon được trình bày trên hình
5. Độ hấp thụ của MB giảm nhanh theo thời
gian, sau 180 phút, đỉnh phổ hấp thụ gần như
biến mất, tương ứng với việc MB gần như bị
phân hủy hoàn toàn. Kết quả này chứng tỏ
nanocomposite ZnO-CuO có khả năng quang
xúc tác trong vùng bước sóng của đèn Xe.
Từ cường độ đỉnh hấp thụ, ta có thể tính
được phần trămMB còn lại sau những khoảng
thời gian chiếu sáng bất kì theo công thức:
H(%) =
A(t)
A(0)
100
Trong đó, H(%) là phần trăm MB còn dư sau khoảng thời gian chiếu sáng t, Abs(0)
và Abs(t) là độ hấp thụ ban đầu và độ hấp thụ tại thời điểm t của dung dịch MB tại một vị
trí đỉnh xác định. Vị trí đỉnh này được lựa chọn tại bước sóng 665 nm.
Mặt khác, độ hấp thụ A = "lc, trong đó " là hệ số hấp thụ phân tử, l là quãng đường
ánh sáng truyền qua, c là nồng độ MB, do đó ta có thể viết: H(%) =
c(t)
c(0)
, với c(0) và
c(t) là nồng độ MB tại thời điểm ban đầu và thời điểm t, tại một vị trí đỉnh xác định.
Ảnh hưởng của độ pH: ZnO là oxit có tính hoạt động mạnh nên trong môi trường
axit có độ pH nhỏ, hạt nanocomposite ZnO-CuO trong dung dịch xanh metylen sau 3 giờ
chiếu sáng hầu như không bị phân hủy. Ngược lại, trong môi trường kiềm (pH > 7), hoạt
tính quang xúc tác của hai mẫu composite ZnO-CuO đều tăng lên rõ rệt khi độ pH tăng
và đạt tối ưu tại giá trị (Hình 6). Sau đó hoạt tính quang xúc tác giảm khi tiếp tục tăng độ
pH tới 12. Kết quả này có thể được giải thích là do sự xuất hiện các gốc OH• tự do trong
dung dịch. Các gốc đó là tác nhân oxi hóa chủ yếu trong môi trường trung tính hoặc môi
trường kiềm. Gốc OH• có thể được hình thành bằng phản ứng giữa ion OH− và lỗ trống
thông qua sự ion hóa các ion OH− có sẵn trên bề mặt ZnO:
Để nghiên cứu quá trình động học quang xúc tác người ta thường áp dụng mô hình
Langmuir - Hinshelwood bằng cách sử dụng biểu thức ln
c0
c
= kKt = k′t: Từ Hình 6, lập
bảng độ dốc k′ của đồ thị y(t) = ln
c0
c
Cuối cùng kết quả được biểu diễn trên Hình 7.
Kết quả áp dụng mô hình của Langmuir - Hinshelwood vào các dữ liệu thực nghiệm
cho sự giải thích phù hợp kết quả thực nghiệm. k′ là tích của k (hằng số tốc độ phản ứng)
và K (hệ số hấp phụ chất phản ứng). Khi độ pH tăng lên, sự tăng các gốc OH− tạo ra sự
33
Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Đăng Phú, Vũ Minh Nguyên, Đỗ Danh Bích
Hình 6. Phổ hấp thụ của dung dịch MB 50 ppm xử lí bằng composite ZnO-CuO
ở các điều kiện pH khác nhau (sau 60 phút)
tăng các gốc OH•, làm tăng tốc độ oxi hóa các phân tử chất hữu cơ có trong dung dịch
giúp cho hoạt động quang xúc tác tăng. Xong độ pH tăng lại làm cho các phân tử hữu cơ
giảm khả năng bám dính lên bề mặt hạt composite, không có lợi cho hoạt động quang xúc
tác. Hình 7 cho thấy độ dốc k′ tối ưu tại pH = 11, với giá trị này hoạt động quang xúc tác
của composite ZnO-CuO là tốt nhất.
Hình 7. Lí thuyết Langmuir - Hinshelwood áp dụng cho các MB 50 ppm được xử lí
bởi các mẫu ZnO-CuO tỉ lệ 50:1 và 20:1
3. Kết luận
Vật liệu nanocomposite ZnO-CuO đã được chế tạo thành công bằng phương pháp
đồng kết tủa. Các kết quả nhiễu xạ tia X, ảnh FE SEM, phổ hấp thụ, phổ FTIR đã chứng
tỏ mẫu chế tạo là vật liệu nanocomposite ZnO-CuO.
Hiệu ứng quang xúc tác của ZnO-CuO được nghiên cứu thông qua phổ hấp thụ của
MB dưới ánh sáng kích thích của đèn xenon. Thời gian quang xúc tác càng tăng thì khả
34
Khảo sát hiệu ứng quang xúc tác của composite ZnO-CuO
năng phân hủy MB càng triệt để. Như vậy nanocomposite ZnO-CuO có hiệu quả phân
hủy MB bằng quang xúc tác dưới bức xạ ánh sáng vùng nhìn thấy và hoạt tính quang xúc
tác của composite ZnO-CuO tăng lên rõ rệt khi độ pH tăng và đạt tối ưu tại giá trị.
Lời cảm ơn: Công trình này được thực hiện với sự hỗ trợ về tài chính của
đề tài SPHN13-300 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và đề tài NAFOSTED mã số
103.02-2012.64.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Yanzu Zhu, Chorng-Haur Sow, Ting Yu, Qing Zhao, Pinghui Li, Zexiang Shen,
Dapeng Yu and John Thiam-Leong Thong, 2006. Co-synthesis of ZnO-CuO
nanostructures by Directly Heating Brass in Air. Avd. Funct. Mater. (2006) 16, pp
2415-2422.
[2] B. Li, Y.Wang, 2010. Facile synthesis and photocatalytic activity of ZnO-CuO
nanocomposite. Superlattices and Microstructures, 47(5), 615 - 623.
[3] M.Zhao, J.Zhang, 2009. Wastewater treatment by photocatalytic oxidation of
Nano-ZnO. Global Enviromental Policy in Japan. 12, 88 - 95.
[4] A.Janotti, C. G.Van de Walle, 2009. Fundamentals of zinc oxide as a semiconductor.
Reports on Progress in Physics, 72(12), 126501(1 - 29).
[5] G. Xiong, U. Pal, J. G. Serrano, K. B. Ucer, and R. T. Williams, 2006.
Photoluminescence and FTIR study of ZnO nanoparticles: the impurity and defect
perspective. phys. stat. sol. (c) 3, No. 10, 3577-3581.
[6] D.Li,H. Haneda, 2003. Photocatalysis of sprayed nitrogen-containing Fe2O3−ZnO
and WO3 − ZnO composite powders in gas-phase acetaldehyde decomposition.
Journal of Photochemistry and Photobiology A: Chemistry, 160(3), 203 - 212.
[7] P.Sathishkumar,R. Sweena, J. J. Wu, S.Anandan, 2011. Synthesis of CuO − ZnO
nanophotocatalyst for visible light assisted degradation of a textile dye in aqueous
solution. Chemical Engineering Journal, 171(1), 136 - 140.
[8] K.Liao, P.Shimpi, P. Gao, 2011. Thermal oxidation of Cu nanofilm on
three-dimensional ZnO nanorod arrays. Journal of Materials Chemistry, 21(26),
9564 - 9569.
[9] A. B. Kuz’menko, D.Van der Marel, P.Van Bentum,E. Tishchenko, C.Presura,
A.Bush, 2001. Infrared spectroscopic study of CuO: Signatures of strong
spin-phonon interaction and structural distortion. Physical Review B, 63(9),
094303.
[10] K.Liao, P.Shimpi, P. X.Gao, 2011. Thermal oxidation of Cu nanofilm on
three-dimensional ZnO nanorod arrays. Journal of Materials Chemistry, 21(26),
9564 - 9569.
35
Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Đăng Phú, Vũ Minh Nguyên, Đỗ Danh Bích
[11] S.Jung, S. Jeon, K. Yong, 2011. Fabrication and characterization of flower-like
CuO − ZnO heterostructure nanowire arrays by photochemical deposition.
Nanotechnology, 22(1), 015606(1-8).
[12] S. Wei, Y.Chen,Y. Ma, Z. Shao, 2010. Fabrication of CuO=ZnO composite films
with cathodic co-electrodeposition and their photocatalytic performance. Journal of
Molecular Catalysis A: Chemical, 331(1 - 2), 112 - 116.
ABSTRACT
Investigating the photocatalytic effect of ZnO-CuO composite
Crystal structures and optical properties of the ZnO-CuO composite prepared
using the co-precipitation method were investigated using X-ray diffraction, field effect
scanning electron microscopy (FESEM) and absorption spectroscopy. The results show
that the fabricated material is a combination of two ZnO and CuO phases. Photocatalytic
activity of materials in solution with methylene blue (MB) under Xe lamp radiation
was studied. The Methylene blue solution was completely bleached after180 minutes.
ZnO-CuO composite has potential for applications in environmental remediation.
The effect of solution pH on MB degradation was also studied to explain the kinetic
processes of MB degradation. The results indicated that the pH value of the solution was a
key factor in MB degradation while changing the degree of acidity of the catalyst surface
also influences photocatalytic activity. When the pH of the solution is less than 3, catalytic
reactions are negligible. The pH value for the most extensive photocatalytic reaction is 11.
36