Theo sử liệu ghi lại thì từ những năm đầu của thế kỷ 20, các 
nhà khoa học người Pháp đã đến các ngôi đền (Bơ- Mung (đền, 
nhà tạm) của người Churu ở vùng Tà In và Tà Năng thuộc 
huyện Tuyên Đức cũ (nay là huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm 
Đồng) để khảo cứu.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kho báu vua Chàm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kho báu vua Chàm 
 Theo sử liệu ghi lại thì từ những năm đầu của thế kỷ 20, các 
nhà khoa học người Pháp đã đến các ngôi đền (Bơ- Mung (đền, 
nhà tạm) của người Churu ở vùng Tà In và Tà Năng thuộc 
huyện Tuyên Đức cũ (nay là huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm 
Đồng) để khảo cứu. 
Bí ẩn trong các Bơ- Mung 
Những bậc cao niên trong các làng thuộc thung lũng vùng Tà In, 
Tà Năng ngày nay kể lại với con cháu rằng: Vào một ngày từ rất 
lâu rồi, khi đế chế Chàm bị thất thủ, vua Chàm và gia quyến cùng 
thần dân rất đông ùn ùn kéo nhau từ hướng Đông (có thể vùng 
Ninh Thuận- Bình Thuận) lên vùng đất thuộc tỉnh Lâm Đồng ngày 
nay và trú chân tạm ở đó. Họ mang theo rất nhiều đồ vật quý hiếm 
bằng vàng, bạc, trong đó có cả vũ khí chiến đấu. Sau khi dựng các 
nhà tạm để đồ vật, họ giao lại cho người Churu và tiếp tục kéo đến 
một nơi nào đó mà đến nay không rõ. Những cổ vật đó được người 
Churu trân trọng thờ giữ qua các đời. Người Churu gọi các ngôi 
nhà tạm ấy là Bơ- Mung, nơi linh thiêng thờ cúng các vị thần, 
những cổ vật trong đó gọi là "tài sản" của thần. Cũng từ đó, nhiều 
câu chuyện về kho báu của vua Chàm xuất hiện. Tuy nhiên, đến 
nay thì những "kho báu" giờ chỉ còn là dấu tích. Người ta cho rằng, 
người Churu đã giấu ở một nơi nào đó, cũng có giả thuyết cho 
rằng, chúng bị người "ngoại đạo" đến phá đền cướp đi. Thực hư 
những kho báu này như thế nào, chúng tôi đã cất công đi tìm. 
Lễ cúng vào đền Krayo (ảnh tư liệu Bảo tàng Lâm Đồng năm 
1992) 
Theo như bà Đoàn Bích Ngọ (phó giám đốc Bảo tàng Lâm 
Đồng) cho biết thì, vào năm 1992, bà là trưởng đoàn cán bộ 
của bảo tàng tỉnh đã về những địa điểm được cho là có "kho 
báu" trên để khảo cứu, làm cơ sở đưa ra biện pháp trùng tu, 
phục dựng lại những Bơ- Mung. Qua các nguồn sử liệu và 
nghiên cứu thực địa cho thấy truyền thuyết kho báu trong dân 
gian của người Chàm trên đất Churu là hoàn toàn có căn cứ. 
Theo sử liệu cũ, vào những năm đầu tiên của thế kỷ 20, các 
nhà bác học Pháp đã cất công thực hiện cuộc điền dã, ghi 
chép rất tỉ mỉ về các ngôi đền này. Cụ thể, năm 1905, trong 
tập kỷ yếu có tên "EC cole Francaise Détrêeme Orient", bài 
khảo cứu "Letresor des Rois Chams" (tập 5) của tác giả 
Hparcentier. I.M. E Durand đã viết khá kỹ về các ngôi đền 
chứa cổ vật nói trên. E. Durand cho rằng, có 3 địa điểm chứa 
bảo vật được cho là của vua Chàm, đó là các ngôi đền thuộc 
làng Lơbui, đền Krayo và Sópmadronhay. Tất cả đều nằm 
trong vùng địa lý cư ngụ của đồng bào Churu (thuộc quận 
Dran, tỉnh Tuyên Đức cũ, nay là vùng Tà In, Tà năng của 
huyện Đức Trọng). Tiếp nối các thập kỷ sau, vào năm 1929-
1930, nhà khảo cứu Mner người Pháp tới thăm các ngôi đền 
trên và viết về các bảo vật trong ở tập kỷ yếu "EF. EO" (tập 
30) 
Đến giữa tháng 12/1957, người Việt Nam đầu tiên đến các 
ngôi đền với tư cách là nhà khoa học đi khảo cứu là ông 
Nghiêm Thẩm (1920-1982). Ông Nghiêm Thẩm là Chánh sự 
vụ của Viện Khảo cổ thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ, 
phụ trách Bảo tồn cổ di tích. Trong chuyến đi về tỉnh Tuyên 
Đức cũ, ông đã cùng cộng sự ghi chép rất tỷ mẩn về các tài 
sản, dựa trên nguồn sử liệu của các nhà khoa học thời Pháp 
để lại. 
 Những "báu vật" có một không hai 
Kết quả nghiên cứu của ông Nghiêm Thẩm cho thấy, những 
ngôi đền có chứa bảo vật cổ được xác định cơ bản ở 3 địa 
điểm là làng Lơbui, đền Krayo và đền Sópmadronhay. Trong 
đó, làng Lơbui có tới 3 điểm cất giữ các báu vật của vua 
Chàm. Một nơi chứa các đồ vật quý, một nơi để đồ sứ và cụm 
để y phục. Tất cả những bảo vật đó được người Churu ở các 
làng trân trọng, xếp trong các giỏ đan bằng tre, mây (tựa như 
chiếc gùi mang truyền thống). Ở ngôi đền chứa đồ sứ, đoàn 
nghiên cứu ghi nhận, có 4 cái bát bằng bạc, hai cái có chân, 
hai cái không có chân và nhiều bát nhỏ bằng đồng và bằng 
ngà. Tất cả được đặt trong một cái hố đào sẵn, để trong góc 
của Bơ- Mung. Tại nơi cất giữ đồ quý có 2 cái vành mũ với 
hoa văn rất cầu kỳ, môt bằng bạc, một bằng vàng pha đồng. 
Còn địa điểm để quần áo, phần nhiều đã bị mục nát. 
Đoàn nghiên cứu của ông Nghiêm Thẩm cho rằng, đó là 
những vật dụng chỉ dành riêng cho bậc quyền cao chức trọng, 
thuộc hàng vua quan, chức sắc của người Chàm. Không phải 
ngẫu nhiên mà những cổ vật này được người Churu thờ cúng 
trong các Bơ- Mung, nơi được coi là linh thiêng, chốn ngự trị 
của thần linh trong quan niệm của người Churu. 
Súng hỏa mai sét nòng tại đền Krayo 
Khi nhà khoa học E. Durand thăm viếng các Bơ- Mung trên 
vào năm 1903, ông gọi kho tàng Krayo là Kjon và kho tàng 
Sópmadronhay là kho tàng Lavan. E. Durand là nhà khoa học 
đầu tiên đến kho tàng Kajon và có lược chép cơ bản về số cổ 
vật tại đền. Nửa thế kỷ sau, khi đoàn của ông Nghiêm Thẩm 
tới đây khảo sát và kiểm kê các báu vật đã so sánh đối chiếu 
với số liệu của E. Durand đã viết, thì thấy có một số không 
khớp. Trong khi E. Durand thấy có 7 chiếc hộp K'lon bằng 
vàng và khoảng 60 đồ bạc, thì trái lại đoàn khảo cổ ông 
Nghiêm Thẩm thấy tới 20 hộp K'lon bằng vàng. Theo E. 
Durand thì có 8 giỏ tre đựng đồ vàng, bạc nhưng ông Nghiêm 
Thẩm thấy chỉ còn 6 giỏ. Ngoài ra còn có 3 miếng vàng lá 
hình chữ nhật có chạm trổ hoa văn, trong đó có một miếng 
chạm trổ rất đẹp và tinh xảo. Bên cạnh đó có 56 vật dụng 
khác bằng kim khí quý giá (ông Nghiêm Thẩm không liệt kê 
đó là vật dụng gì) cùng 24 khẩu súng thần công dài và 1 khẩu 
thần công ngắn, kể cả súng hỏa mai (súng bắn cá nhân giống 
súng trường). 
Ngoài các đồ kim khí kể trên còn có nhiều đồ vải vóc gồm có 
triều phục Việt Nam và áo kiểu Chàm, màu lam hoặc màu 
hoa lý, đựng trong 3 chiếc rương gỗ. Những nhà khoa học 
cho rằng, có thể lúc này người Chàm đã chung sống với 
người đàng ngoài, khi bờ cõi nước Đại Việt không mở rộng 
(?!). Theo báo cáo của ông Nghiêm Thẩm, tại kho tàng 
Sópmadronhay, các bảo vật ở đây gồm 5 loại cơ bản: Binh 
khí, tự khí (trong loại này có những đồ bằng vàng bạc có 
chạm trổ) và y phục gồm đồ Chàm và triều phục của triều 
đình Việt Nam như đã mô tả trên. 
Sau khi so sánh thực tế với tài liệu "Le tresor des Rois Cham" 
của E. Durand thì đoàn của ông Nghiêm Thẩm đã khẳng 
định, kho tàng này chính là kho tàng Lavan mà hai nhà bác 
học E. Durand và Mner đã viếng thăm hồi đầu thế kỷ. Nhưng 
những con số đối chiếu có một số không khớp. Và giả thuyết 
đưa ra hoặc là các nhà khảo cổ người Pháp khi điền dã đã 
không khảo sát hết, chỉ nhìn những gì trực diện mà thôi. Vì 
thuở xưa, những người "mắt xanh, mũi lõ" được xem là 
người lạ, không được vào xem cổ vật trong các Bơ- Mung. 
Nguyên tắc của người Churu, muốn thăm đền và xem các vật 
báu trên, người ta phải sắm lễ vật rất hậu hĩnh. Có thể trâu, 
bò, lợn, gà... để xin thần và khi thần "ưng bụng" thì mới được 
vào đền. Tất nhiên cũng tùy người chứ không phải ai có lễ 
vật cũng được vào. Nếu không sẽ có thể nguy hiểm đến tính 
mạng. Vì vậy việc những người trông đền giấu cổ vật đi để 
khỏi bị mất là hoàn toàn có cơ sở. Bên cạnh đó, vùng Tà In, 
Tà Năng giai đoạn đầu thế kỷ 20, là xứ sở khép kín, rừng 
thiêng nước độc, rất hiểm trở, không có người lạ vào, nên cổ 
vật được bảo quản gần như tuyệt đối. 
Trên cơ sở sử liệu trên có thể khẳng định, trên vùng đất này 
từng có những ngôi đền được xem là nơi gửi gắm báu vật là 
có thật. Nhưng đến nay, qua bao biến cố thăng trầm của lịch 
sử, những "kho báu" ấy đã hoàn toàn biến mất, trong những 
Bơ- Mung chỉ còn chứa một vài đồ vật như bát, đĩa bằng sứ, 
một vài khẩu súng hỏa mai gỉ, sét. Đó là hệ quả của gót giày 
xâm lược của ngoại bang, lòng tham con người, mà sau này 
"thủ phạm" không ai khác là những tay săn lùng cổ vật tìm 
đến. 
Dấu tích của người Chàm qua ấn tín 
Khi khảo cứu đền Sópmadronhay, đoàn cán bộ của ông 
Nghiêm Thẩm còn phát hiện có một số con dấu và triện khắc 
bằng chữ Hán. Chia làm làm 2 loại: Loại thứ nhất là những 
con dấu thuộc về hành chính, thường dùng cuối đời Lê đầu 
đời Nguyễn như: Vi chấp bằng, trình, phó, phái, tạm. Loại 
thứ hai là những con dấu có mang chức tước và tên của 
người được phép sử dụng con dấu đó. Điều này cho thấy, 
những đồ vật này có liên quan đến việc tổ chức chính quyền 
của người Chàm. Hay nói đúng hơn, đó là khi vương quốc 
Chàm thất thủ, họ đã mang tất cả những vật dụng, ấn tín biểu 
tượng của Nhà nước cùng đồ vật quý lên vùng cao nguyên 
chạy nạn, nhờ người Churu coi giữ.