Tóm tắt. Với triết lí giáo dục mầm non vì trẻ em, lợi ích và nhu cầu của
chính các em, việc thực hiện chương trình GD và tổ chức hoạt động GD
theo tiếp cận tích hợp chủ đề giúp cho các em học được kiến thức và kĩ năng
theo từng lĩnh vực, đồng thời học cách thức ứng dụng kiến thức và kĩ năng
vào các hoạt động thực hành, trải nghiệm và gắn với thực tế cuộc sống. Bên
cạnh đó, trẻ học cách nhận ra tình huống để có thể sử dụng các kĩ năng đã
học được. Một chủ đề dạy trẻ MG được thực hiện qua 3 giai đoạn và tương
ứng với nó là các hoạt động hữu ích nhằm tạo ra những cơ hội cho trẻ học
tập tích cực.
Để có thể thực hiện tốt chương trình GDMN và các hoạt động GD theo tiếp
cận tích hợp, GVMN cần được hình thành những kĩ năng nghề cần thiết và
tiếp tục phát triển trong quá trình hoạt động nghề nghiệp sau này.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kĩ năng tổ chức họat động giáo dục theo tích hợp chủ đề cho trẻ mẫu giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
IER., 2011, Vol. 56, pp. 94-102
KĨ NĂNG TỔ CHỨC HỌAT ĐỘNG GIÁO DỤC
THEO TÍCH HỢP CHỦ ĐỀ CHO TRẺ MẪU GIÁO
Hồ Lam Hồng
Viện Nghiên cứu Sư phạm - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
E-mail: holamhong@yahoo.com
Tóm tắt. Với triết lí giáo dục mầm non vì trẻ em, lợi ích và nhu cầu của
chính các em, việc thực hiện chương trình GD và tổ chức hoạt động GD
theo tiếp cận tích hợp chủ đề giúp cho các em học được kiến thức và kĩ năng
theo từng lĩnh vực, đồng thời học cách thức ứng dụng kiến thức và kĩ năng
vào các hoạt động thực hành, trải nghiệm và gắn với thực tế cuộc sống. Bên
cạnh đó, trẻ học cách nhận ra tình huống để có thể sử dụng các kĩ năng đã
học được. Một chủ đề dạy trẻ MG được thực hiện qua 3 giai đoạn và tương
ứng với nó là các hoạt động hữu ích nhằm tạo ra những cơ hội cho trẻ học
tập tích cực.
Để có thể thực hiện tốt chương trình GDMN và các hoạt động GD theo tiếp
cận tích hợp, GVMN cần được hình thành những kĩ năng nghề cần thiết và
tiếp tục phát triển trong quá trình hoạt động nghề nghiệp sau này.
1. Mở đầu
Vận dụng tiếp cận tích hợp vào tổ chức dạy học các môn khoa học đã được các
nhà khoa học quan tâm từ những năm đầu của thế kỷ XX. Năm 1918, Kilpatrick
đã xây dựng “phương pháp dự án” vận dụng trong giáo dục cho thấy hiệu quả nhất
định. Mặt khác, giáo dục đổi mới để hình thành những năng lực cần thiết giúp cho
con người có thể tìm kiếm, phân tích và tổng hợp, vận dụng kiến thức tổng hợp
vào xử lí linh hoạt những tình huống xảy ra của cuộc sống – hình thành những con
người tương lai năng động và sáng tạo. Những tư duy mới về chất lượng giáo dục
(GD) và giáo dục mầm non (GDMN) gắn liền với việc chuẩn bị cho người học thích
nghi với và tham gia vào cuộc sống luôn thay đổi, giải quyết thành công những vấn
đề nảy sinh trong thực tế. Nâng cao chất lượng GDMN cũng đồng nghĩa với việc
mang lại cho trẻ các bài học hữu ích hay hoạt động có ý nghĩa thực sự, gần gũi với
cuộc sống nhằm hình thành những kĩ năng sống, kĩ năng học tập và làm việc để các
em thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường sống.
Trong 2 năm học qua, chương trình GDMN (mới) đã được triển khai thực
hiện đại trà trên cả nước theo quan điểm tích hợp. Chương trình mới đã được ban
94
Kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục theo tích hợp chủ đề cho trẻ mẫu giáo
hành và có khá nhiều loại tài liệu hướng dẫn thực hiện. Song việc chỉ đạo thực hiện
chương trình GDMN chưa có sự thống nhất chung, nên dẫn đến tình trạng “trăm
hoa đua nở”, GVMN tổ chức các hoạt động GD theo hướng tích hợp nhưng lại chưa
hiểu hết bản chất của việc làm. Đa số giáo viên mầm non (GVMN) bị phụ thuộc
quá nhiều vào tài liệu hướng dẫn thực hiện hoạt động GD cho trẻ, mà không thể lí
giải tại sao làm như vậy?, tích hợp như thế nào cho đủ và đúng?, vẫn tồn tại tình
trạng giáo viên (GV) “là trung tâm của quá trình GD trẻ”, kế hoạch GD xuất phát
từ mong muốn của người lớn chứ chưa xuất phát từ nhu cầu, hứng thú, khả năng,
vốn kinh nghiệm và hiểu biết của trẻ.
Một thực trạng đáng lưu tâm là công tác đào tạo GV đi sau nghiên cứu và
thực tiễn của GDMN, công tác quản lý chỉ đạo, triển khai thực hiện chương trình
GDMN chưa có tính thống nhất chung. Chuyên đề giới thiệu chương trình GDMN
mới được đưa vào đào tạo, song cũng chưa đủ sâu để SV hiểu thấu đáo từ triết lí
GD đến chương trình GD, các phương pháp dạy học hiện đại được áp dụng vào
GDMN. Do đó, khi đi thực tập, SV mới được bắt đầu làm quen chương trình (mới),
vấn đề tích hợp và khái niệm mới, phương pháp giáo dục và cách thức triển khai
giảng dạy có hiệu quả đối với trẻ mầm non nhưng lại không nhận được những giải
thích, lí giải cụ thể.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tiếp cận tích hợp theo chủ đề trong GDMN
a. Triết lí GD Cốt lõi của triết lí GD là: người học, lợi ích và nhu cầu của
người học, sự thành công của họ sẽ đem lại lợi ích cho xã hội. Vì vậy GD phải dựa
vào người học và hoạt động của chính người học. Trẻ MN là người học tích cực ngay
từ khi còn rất nhỏ, vì vậy GD trẻ từ MN càng đóng vai trò quan trọng trong quá
trình GD. Theo đó, triết lí GDMN là vì trẻ em, lợi ích và nhu cầu của chính các em.
Vì vậy, các hoạt động GD hướng vào trẻ em, dựa vào trẻ em và cũng từ chính hoạt
động của các em để giúp trẻ xây dựng nền tảng kiến thức, kĩ năng học tập và vì sự
phát triển lâu dài của chính chúng.
b. Tích hợp theo chủ đề
Theo Từ điển Anh – Việt, tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương
trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp là sự
hợp nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp. Tương tự, trong Từ điển tiếng Việt, tích hợp được
hiểu là sự kết hợp thành phần để tạo thành một thể thống nhất, không chia cắt;
một cái gì đó toàn vẹn.
Theo Đại từ điển Bách khoa toàn thư Xô viết thì “tích hợp” là một khái niệm
của lý thuyết hệ thống, chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành một cái
toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này.
95
Hồ Lam Hồng
Theo Nguyễn Thị Ánh Tuyết, tích hợp không chỉ là liên kết (Integration) mà
là xâm nhập, đan xen, kết hợp các đối tượng hay bộ phận vào nhau, tạo thành một
chỉnh thể thống nhất. Trong đó, các giá trị của từng bộ phận được bảo tồn và phát
triển, và toàn bộ chỉnh thể (được tạo bởi những giá trị đơn lẻ của chỉnh thể) được
nhân lên. Tích hợp không phải là phép cộng của các phần xếp cạnh nhau, mà là
sự đan kết phù hợp của các phần để tạo nên chỉnh thể có ý nghĩa. Một chỉnh thể
“toàn vẹn”, “thống nhất” chỉ có thể có được khi các bộ phận sắp xếp theo một hệ
thống/trật tự hợp lí nhất định, theo logic thứ bậc của các mối quan hệ giữa chúng
được xác định. Tuy nhiên, sự liên kết giữa các bộ phận trong một chỉnh thể có thể
theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục đích liên kết. Từ những định nghĩa
trên có thể kết luận: Tích hợp là sự kết hợp, liên kết và đan xen các bộ phận để tạo
thành một chỉnh thể toàn vẹn thống nhất, luôn đảm bảo tính thống nhất, tính toàn
vẹn, tính hệ thống và tính mục đích, đồng thời giá trị của từng bộ phận vẫn phát
triển và làm chỉnh thể cũng phát triển.
Theo quan điểm tích hợp, trẻ em sống và lĩnh hội kiến thức trong môi trường
sống tổng thể mà ở đó tất cả các yếu tố xã hội, tự nhiên và khoa học đan quyện
vào nhau tạo thành môi trường phong phú đối với trẻ. Xuất phát từ quan điểm này,
chương trình GD trẻ được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. GD tích hợp và dạy
học tích hợp nhấn mạnh việc kết hợp nhiều nội dung GD thông qua các hoạt động
tích cực của trẻ và gắn những điều được học với môi trường sống thực tế. Trong cách
học này, trẻ học một cách tự nhiên, không có giới hạn về không gian, thời gian và
môn học, mà “việc học của trẻ không chỉ xảy ra trong phạm vi hạn hẹp của mỗi môn
học; sự học và phát triển của trẻ mang tính tích hợp. Một hoạt động thúc đẩy một
mặt phát triển nào đó và có tác động đến các mặt phát triển khác” (Bredekamp,
1987). Do đó đứa trẻ sống và lĩnh hội những kiến thức, những giá trị, những kĩ năng
sống ở ngay trong môi trường tổng thể đó - đứa trẻ sống và tiếp nhận sự đan xen
của các kiến thức, kĩ năng, giá trị đó mang tính tổng thể, và ngược lại, trẻ em lại
sử dụng những kiến thức, kĩ năng đó vào giải quyết những tình huống thực tiễn của
cuộc sống.
Trẻ em lứa tuổi MN chưa thể lĩnh hội tri thức khoa học theo các môn học
riêng biệt. Theo quan điểm tích hợp thì tri thức, kĩ năng về cuộc sống gần gũi xung
quanh là những tri thức tiền khoa học (hay tiền khái niệm theo cách gọi của L.S.
Vygotsky) là phù hợp nhất đối với trình độ phát triển của trẻ lứa tuổi MN, bởi lẽ
những tri thức đó vốn mang trong mình tính tích hợp, có khả năng cung cấp cho
trẻ những kinh nghiệm sống phong phú về nhiều mặt.
* Quan điểm tích hợp trong GDMN được thể hiện ở:
1. Mối quan hệ giữa chăm sóc, nuôi dưỡng với GD, dạy kiến thức và kĩ năng.
Khi thực hiện 2 nhiệm vụ này, GV cần lồng nghép, đan cài linh hoạt trong các hoạt
động: trong nuôi có dạy, có GD; trong GD, dạy có dỗ, rèn luyện những kĩ năng sống
từ trong tình huống hàng ngày. Một hình thức tích hợp cao trong quá trình CS-GD
96
Kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục theo tích hợp chủ đề cho trẻ mẫu giáo
trẻ MN.
2. Sự lồng ghép, liên kết các hoạt động của trẻ trong đó hoạt động chơi đóng
vai trò chủ đạo. Chơi là một hoạt động mang tính tích hợp cao. Khi trẻ tham gia
vào trò chơi cũng chính là lúc trẻ nhập vào cuộc sống thực, nếu nhập vào một vai
nào đó tức là lúc trẻ ướm mình như một người cụ thể với các hành vi muốn học và
trẻ hòa mình vào XH theo cách riêng, mô phỏng lại XH người lớn. Chính trong lúc
chơi, trẻ tiếp nhận và thu lượm những kinh nghiệm XH ở nhiều góc độ, nhiều lĩnh
vực khác nhau, theo cách riêng của mình. Đó là những kinh nghiệm mang tính tích
hợp cao, cần cho cuộc sống của đứa trẻ sau này.
3. Chương trình GDMN không phân chia thành những bộ môn khoa học tách
biệt như trường phổ thông, mà xuất phát từ yêu cầu hình thành những năng lực
chung, nhằm hướng đến sự phát triển những nền tảng nhân cách ban đầu, làm cơ
sở cho sự phát triển lành mạnh, bền vững và lâu dài.
4. Việc tổ chức thực hiện các hoạt động GD cho trẻ xuất phát từ nhu cầu,
hứng thú, kinh nghiệm cá nhân và các tình huống thực tế, qua đó trẻ tìm hiểu sự
vật hiện tượng bằng trải nghiệm thực tế. Đồng thời những kiến thức và kĩ năng trẻ
học được cũng được vận dụng vào giải quyết những tình huống có vấn đề gần gũi
với trẻ.
5. Dạy học theo tích hợp chủ đề giúp trẻ học trong sự liên kết những kiến thức
và kĩ năng tạo nên hệ thống tri thức theo mạch chủ đề. Mặt khác, dạy học theo tiếp
cận tích hợp chủ đề giúp đứa trẻ liên hệ mở rộng những điều học được với thực tế
cuộc sống.
* Hoạt động tích hợp theo chủ đề.
Chủ đề (topic): là cái gì đó có thể là cụ thể hoặc cũng có thể là trừu tượng về
thế giới xung quanh, những gì gần gũi trong cộng đồng hoặc ở một nơi nào đó xa
xôi, về thời hiện tại hoặc trong quá khứ, ở quy mô nhỏ hoặc lớn. Chủ đề có thể về
một điều gần gũi, đơn giản (chủ đề thức ăn thuộc đề tài dinh dưỡng) hoặc có thể là
một vấn đề quan trọng (Chủ đề lũ lụt nằm trong đề tài thiên tai). Trẻ càng nhỏ thì
chủ đề càng cần phải gần gũi, cụ thể, ở thời hiện tại, và ở quy mô nhỏ để trẻ có thể
trực tiếp tiếp xúc hoặc liên hệ với những hiểu biết và kinh nghiệm đã có của mình.
Để hình thành cho trẻ những hiểu biết đầy đủ nhất, hiểu bản chất của sự vật hiện
tượng thấu đáo nhất, thì cần phải chọn những vấn đề gần gũi với trẻ và tạo ra được
những cơ hội cho trẻ tương tác, tiếp xúc trực tiếp. Chủ đề có thể là điểm khởi đầu
cho sự khai thác vô tận các nội dung GD có liên quan: từ một tế bào đến một con
voi, từ cát tới núi lửa, từ nấu ăn đến vấn đề XH. . . Chủ đề có thể là điểm khởi đầu
cho các cuộc thảo luận và cái đích cuối cùng sẽ khó đoán định trước được.
Hoạt động theo chủ đề là việc nghiên cứu tìm hiểu sâu về một chủ đề cụ thể
với mục tiêu tạo cơ hội cho trẻ thực hiện tìm hiểu vấn đề thông qua việc kết nối các
thông tin, phối hợp nhiều kĩ năng, giá trị và thái độ nhằm xây dựng kiến thức và
97
Hồ Lam Hồng
phát triển khả năng học tập lâu dài cho trẻ. Khi GV quyết định về chủ đề nào đó
thì họ sẽ xác định cách thức cho trẻ thực hiện, nghiên cứu, liên kết các thông tin,
kĩ năng vào giải quyết vấn đề của chủ đề, do đó việc lập kế hoạch rất quan trọng.
Học dựa trên chủ điểm cho phép trẻ khám phá các chủ đề thực sự có ý nghĩa đối
với trẻ, phạm vi nghiên cứu rất rộng, sâu sắc và có ý nghĩa đồng thời thể hiện được
sự đóng góp trí tuệ của trẻ vào quá trình học (học có ý nghĩa và học cách học). Đây
là cách học tích hợp, GV không hướng chủ đề theo các lĩnh vực môn học (Arthur,
et.al,1996) mà hướng vào kiến thức và kĩ năng trẻ cần học. Các đặc điểm của học
dựa vào hoạt động theo chủ đề là: i)Thảo luận để các câu hỏi xuất hiện, để trẻ chia
sẻ, động não, suy xét; ii)Sự tái hiện bao gồm các kĩ thuật từ tạo hình tới chữ viết;
kĩ thuật gợi nhớ hay hồi tưởng; iii)Tìm tòi, khám phá là việc trẻ ứng dụng những kĩ
năng trí tuệ khác nhau trong để đặt ra các câu hỏi khác nhau về chủ đề; iv)Trưng
bày để chia sẻ các kết quả học tập.
Trẻ em cần được hướng dẫn rõ ràng và cụ thể để tiếp nhận những kiến thức
và kĩ năng, cũng như cách thức để ứng dụng kiến thức của mình vào công việc có
liên quan. Như vậy trong chương trình có hai hình thức đáp ứng nhu cầu học tập
của trẻ, đó là: i) Giảng dạy có hệ thống để cung cấp các kiến thức và kĩ năng cần
thiết; và ii) Hoạt động theo chủ đề mang tính tự do để trẻ ứng dụng kiến thức và
kĩ năng vào công việc phù hợp. Vai trò của hoạt động theo chủ đề là trẻ không chỉ
cần phải biết làm thế nào để sử dụng một số kĩ năng mà còn phải biết khi nào thì
sử dụng nó. Vậy trẻ cần học để nhận ra tình huống có thể sử dụng những kĩ năng
một cách phù hợp nhất. Hay nói một cách khác, trong giờ học theo môn học riêng
biệt, trẻ lĩnh hội kiến thức và kĩ năng, còn trong hoạt động theo chủ đề trẻ học cách
ứng dụng những kiến thức và kĩ năng cần thiết, phù hợp vào các tình huống cụ thể
có ý nghĩa. Trong phát triển trí tuệ thì năng lực “di chuyển” (transfer) kiến thức, kĩ
năng là biểu hiện mức độ chất lượng tri thức đã lĩnh hội ở mức độ cao.
2.2. Vận dụng tiếp cận tích hợp chủ đề vào tổ chức hoạt động
GD trẻ MN
Để tổ chức thực hiện chủ đề, trước hết GV cần chọn chủ đề. Việc lựa chọn
chủ đề phụ thuộc vào các yếu tố sau (hay trả lời các câu hỏi) (Hình 1).
Việc thực hiện chủ đề phải hướng tới tổ chức quá trình hoạt động học tập của
trẻ, chứ không trực tiếp truyền đạt kiến thức. Xây dựng các hoạt động theo tiếp cận
tích hợp chủ đề, GV luôn nghĩ đến hoạt động chủ đạo đối với trẻ MN là hoạt động
chơi. Để thực hiện chủ đề, GV cần thực hiện theo 3 giai đoạn với các mục đích và
nội dung khác nhau như là 3 bước logic hướng tới mục tiêu phát triển ở trẻ tri thức
tích hợp (Bảng 1).
98
Kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục theo tích hợp chủ đề cho trẻ mẫu giáo
Bảng 1. Các giai đoạn tổ chức hoạt động
GĐ
Giai đoạn 1. Gây hứng
thú cho trẻ mang tính
khởi động.
Giai đoạn 2. Phát triển chủ
đề (duy trì và tối đa hóa
hứng thú của trẻ, đáp ứng
nhu cầu học tập và phát
triển).
Giai đoạn 3. Kết
thúc chủ đề.
Mục
đích
-Tập trung sự chú ý của
trẻ đến vấn đề muốn tìm
hiểu;
- Gây hứng thú hiểu
biết, kích thích và gợi
nhớ những kinh nghiệm
sẵn có và hình thành ở
trẻ những câu hỏi về chủ
đề. - Khắc sâu, mở rộng
những kinh nghiệm và
ấn tượng về cuộc sống.
- Tạo nhiều cơ hội ứng
dụng những kĩ năng trong
các lĩnh vực (múa, hát,
ngôn ngữ, vẽ, đếm...)
- Kích thích tiếp hứng thú
của trẻ đối với các hoạt
động.
- Trải nghiệm các cảm xúc
khác nhau và hình thành
tính độc lập, tự lực và tự
tin vào bản thân của trẻ.
- Liên hệ mở rộng những ấn
tượng, kiến thức và kĩ năng
học được vào thực tế cuộc
sống.
- Tạo nên sự lắng
đọng những dấu ấn
đã được học qua hoạt
động của chủ đề.
- Tạo hứng thú đến
những điều muốn
tìm hiểu tiếp tục.
Các
hoạt
động
chính
+ Trò chuyện, trao đổi
về những kinh nghiệm
có thật về chủ đề.
+ Hoạt động thể hiện
những kinh nghiệm của
trẻ đã có qua hình vẽ,
minh họa bằng động
tác, kể chuyện, sưu tầm
đồ vật, tranh ảnh. . .
+ Thảo luận cùng nhau
về những kinh nghiệm
đã có. GV đặt câu hỏi
kích thích trẻ tìm câu
trả lời, hoặc khuyến
khích trẻ đặt câu hỏi về
chủ đề qua đó cùng cả
lớp hình thành những
câu hỏi về chủ đề.
+ Tham quan, quan sát sự
vật hiện tượng.
+ Xem phim, băng video,
xem tranh, ảnh.
+ Thảo luận, trò chuyện,
phỏng vấn.
+ Tìm hiểu qua sách tranh,
chuyện kể, khám phá trực
tiếp.
+ Thể hiện, biểu đạt qua
các hình thức khác nhau
(bằng ngôn ngữ, phi ngôn
ngữ như kể chuyện, mô tả,
trình bày hoặc vẽ tranh,
làm động tác minh họa).
+ Thực hiện các bài tập,
tình huống thực để trẻ có
cơ hội liên hệ, vận dụng
những điều học được vào
giải quyết vấn đề.
+ Tổ chức các buổi lễ
hội, liên hoan hay hội
thi để trẻ được tự do
thể hiện mình, chạy
nhảy, múa, hát, chia
sẻ với nhau.
+ Trưng bày triển
lãm các sản phẩm
của mình.
+ Tặng quà bằng các
sản phẩm do trẻ tạo
ra.
+ Trao đổi, trò
chuyện liên hệ đến
những vấn đề có liên
quan và kích thích
trẻ tìm hiểu vấn đề
mới nảy sinh.
99
Hồ Lam Hồng
Hình 1. Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn chủ đề
2.3. Những kĩ năng cần thiết
Để có thể thực hiện chương trình GDMN và tổ chức tốt hoạt động GD theo
tích hợp chủ đề, GVMN cần có kĩ năng nhất định:
- Kĩ năng quan sát, đánh giá và hiểu sâu sắc đối tượng trẻ làm cơ sở cho việc
lập kế hoạch GD. Quan sát và hiểu đối tượng trẻ nhằm giúp GVMN có thể xác định
được trẻ của mình đang đứng ở đâu?; Trẻ cần học gì và có thể học được gì?; Tổ
chức những hoạt động như thế nào là phù hợp nhất với trẻ?
- Kĩ năng xây dựng kế hoạch dạy học và GD (lập kế hoạch dạy học và giáo
dục; chọn lựa hoạt động theo chủ đề phù hợp với lứa tuổi, lên kế hoạch bài học;
chuẩn bị và hướng dẫn trẻ chuẩn bị trang thiết bị. . . ), đặc biệt là chọn lựa các hoạt
động để trẻ được tự tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm thực tế.
- Kĩ năng chọn lựa những hoạt động cho trẻ trải nghiệm phù hợp và đầy hứng
thú đối với trẻ. Cùng với kĩ năng này, GVMN cần biết khai thác các nguồn thông tin
qua các kênh khác nhau: khai thác qua sách, báo, tài liệu, phim ảnh, tranh, internet
100
Kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục theo tích hợp chủ đề cho trẻ mẫu giáo
hay băng đĩa nhạc.
- Kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học và GD theo tích hợp chủ đề phù hợp,
trong đó chú trọng việc tổ chức các hoạt động dạy học có hướng dẫn và các hoạt
động cho trẻ được thực hiện việc ứng dụng các kĩ năng vào hoạt động tự do.
- Kĩ năng sử dụng trang thiết bị đồ dùng dạy học và hướng dẫn trẻ học cách
sử dụng đồ dùng, nguyên vật liệu. Đồng thời, GVMN có kĩ năng hướng dẫn trẻ làm
đồ dùng đồ chơi và sử dụng những đồ dùng trẻ tự làm.
- Kĩ năng theo dõi và đánh giá sự tiến triển của trẻ sau mỗi hoạt động tích
hợp theo chủ đề và sau mỗi chủ đề. GVMN biết cách theo dõi đánh giá trẻ qua các
kênh khác nhau: từ sản phẩm của trẻ, qua các câu trả lời, câu chuyện trẻ kể, bức
tranh vẽ của trẻ. . .
- Kĩ năng phối kết hợp với đồng nghiệp trong quá trình GD trẻ theo hướng
tích hợp chủ đề.
Những kĩ năng thực hiện chương trình GDMN và tổ chức hoạt động GD trẻ
MG theo hướng tích hợp chủ đề là một quá trình rèn luyện liên tục từ trong trường
sư phạm cho đến khi ra hành nghề. Do đó ngay từ trong trường sư phạm, SV cần
được hiểu sâu sắc triết lí GDMN, bản chất của chủ đề và hoạt động tích hợp theo
chủ đề, quy trình và cách thức thực hiện chương trình GD trẻ phù hợp.
3. Kết luận
Từ việc xây dựng chương trình khung GDMN đến phát triển chương trình chi
tiết cho từng đối tượng trẻ, hay lập kế hoạch hoạt động GD theo tiếp cận tích hợp
chủ đề, GV cần hiểu rõ và quán triệt triết lí GD nói chung và triết lí GDMN nói
riêng, đó chính là trẻ em, lợi ích và nhu cầu của chính các em. Tổ chức hoạt động
GD theo tiếp cận tích hợp chủ đề, ngoài việc giúp cho các em học được những kĩ
năng theo từng lĩnh vực chuyên sâu (kĩ năng hát, múa/ vận động theo nhạc; biểu
đạt bằng lời nói; tạo nét và vẽ. . . ), các em còn được học cách thức ứng dụng những
kĩ năng đó vào các hoạt động thực hành, trải nghiệm, liên hệ với thực tế.
Việc xây dựng chương trình GD phù hợp với trẻ MN yêu cầu GV phải hiểu
trẻ (nhu cầu và hứng thú của trẻ đối với chủ đề muốn tìm hiểu; trình độ và khả
năng của trẻ; phương thức học phù hợp đối với trẻ theo từng lứa tuổi; sở trường
và thiên hướng. . . ) để xác định những nội dung trẻ cần học qua chủ đề, xác định
những hoạt động tích hợp theo chủ đề mà trẻ học phù hợp và có hiệu quả bằng trải
nghiệm thực tế và dự kiến đầu ra của sản phẩm sau quá trình tổ chức hoạt động.
Để có thể tổ chức tốt các hoạt động cho trẻ MN, giáo viên cần hình thành và
phát triển những kĩ năng dạy học và giáo dục nhất định trên cơ sở hiểu trẻ em một
cách sâu sắc để thiết kế và tổ chức chương trình giáo dục theo triết lí giáo dục: trẻ
em, lợi ích và nhu cầu của các em. Việc xây dựng hệ thống kĩ năng này cần được
rèn luyện ngay từ khi còn trong trường sư phạm.
101
Hồ Lam Hồng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Katz,L.,&Chard,S., 2002. Engaging-Children’s Minds. The Project approach.
[2] Haddad, L., 2001. An integ