Adam Smith là một trong các nhà trí thức có một nền tảng giáo dục tốt (trong ngành luật)
mà có liên quan đến phong trào ngày nay như một "sự khai sáng người Scotland". Ngoài
Adam Smith ra còn có thể kể đến David Hume. Hai vị này đều là người Scotland vùng
Glasgow hoặc vùng Edinburg và họ đã cùng làm việc và viết những bài chống lại sự kiểm
soát ngày càng mở rộng của nước Anh và những cuộc nổi dậy chống lại nó. Thậm chí
trước cuộc cách mạng mà Mỹ chống lại luật lệ của Anh, vùng cao nguyên Scotland đã có
những cuộc nổi dậy liên tục vào thế kỷ 18, tràn vào những thung lũng nhỏ hẹp, ở các
vùng đất thấp Scotland thì dùng gươm giáo chống lại súng ống của Anh, thậm chí chiếm
luôn cả phần đất của Anh
23 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1856 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế học cổ điển và chủ nghĩa tư bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản
Harry M. Cleaver, Jr.
Dịch Viên: Nhân Thụy
Adam Smith và Sự khai sáng người Scotland
Adam Smith là một trong các nhà trí thức có một nền tảng giáo dục tốt (trong ngành luật)
mà có liên quan đến phong trào ngày nay như một "sự khai sáng người Scotland". Ngoài
Adam Smith ra còn có thể kể đến David Hume. Hai vị này đều là người Scotland vùng
Glasgow hoặc vùng Edinburg và họ đã cùng làm việc và viết những bài chống lại sự kiểm
soát ngày càng mở rộng của nước Anh và những cuộc nổi dậy chống lại nó. Thậm chí
trước cuộc cách mạng mà Mỹ chống lại luật lệ của Anh, vùng cao nguyên Scotland đã có
những cuộc nổi dậy liên tục vào thế kỷ 18, tràn vào những thung lũng nhỏ hẹp, ở các
vùng đất thấp Scotland thì dùng gươm giáo chống lại súng ống của Anh, thậm chí chiếm
luôn cả phần đất của Anh. Trong khi đó phản ứng đầu tiên của Anh chính là dùng quân
đội (đã đánh bại quân phiến loạn Jacobite và tàn sát cả những thị tộc mà họ gặp phải)
trong một thời kỳ lâu dài, với sự trợ giúp của giới trí thức "khai sáng người Scotland", họ
đã tiến hành những gì mà ngày nay chúng ta gọi là chống chiến tranh du kích bao quanh,
tiêu diệt và xoá sạch văn hoá những thị tộc ở vùng cao nguyên Scotland - có thể gọi đây
là nạn diệt chủng văn hoá, nó đựơc lập ra để xoá sạch những con người đó và gom những
người còn sót lại theo chế độ chủ nghĩa tư bản Anh. (Lưu ý: tham khảo thêm dòng lịch sử
của Scotland và những đường dẫn khác để biết rõ thêm chi tiết, đặc biệt là phần xoá sổ
vùng đất cao nguyên. Xem thêm phim Bravehearts và Rob Roy để thấy được Hollywood
đã dựng lại những con người vùng cao nguyên đó và cả những tình hình chính trị lúc bấy
giờ. Đọc tiểu thuyết Rob Roy của ngài Walter Scott để biết thêm một số hư cấu về một vị
anh hùng có thật của Scotland.)
Smith với Thuyết Trọng Thương
Chúng ta hãy bắt đầu với việc khảo sát lại mối liên hệ giữa Smith và những người theo
thuyết trọng thương trước thời của ông và ông đã cố gắng tìm tòi để có những nghiên cứu
sâu xa hơn những tư tưởng của họ. Đề phục vụ cho mục đích của chúng ta, chưong đầu
tiên trong tác phẩm của ông Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân làm giàu cho quốc
gia - gồm bốn tập - có cung cấp một tóm tắt ngắn gọn về những quan niệm của ông ta -
chủ yếu tập trung vào tiền tệ, ông cho rằng tiền như một hình thức chủ đạo để làm giàu và
cũng cần thiết cho "thặng dư" xuất khẩu nhằm mở rộng mức cung tiền.
Đầu tiên, Smith lập luận rằng trong những thời điểm thuận lợi thậm chí những người theo
thuyết trọng thương cũng biết rằng tài sản thật sự của một quốc gia là "đất đai, nhà cửa,
và những loại hàng hoá có thể tiêu thụ được" của nó hơn là tiền bạc. Thứ hai, ông cho là
lợi nhuận đầu tiên thu được từ mậu dịch chính là mở rộng thị trường cho sản xuất trong
nước, có thể bán đi bất kỳ hàng hoá sản xuất thừa trong nước và khuyến khích các ngành
trong nước phát triển. Ông cũng chỉ trích đến việc người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã
phá huỷ đế chế Mexico và Peru, do đó làm hạn chế mậu dịch với hai nước này. Ông cũng
công kích cả sự độc quyền mậu dịch của những nước đế quốc ở Châu Âu như cho phép
công ty Đông Ấn của Mun giữ thế độc quyền trong khi đó kiềm chế mậu dịch và tài sản
của những nước thuộc địa. Ông đồng tình với chính sách mậu dịch tự do hơn với những
vùng thuộc địa Bắc Mỹ. (Còn đối với người bản xứ của Bắc Mỹ, ông không quan tâm
đến họ vì cho rằng họ "chỉ là những người không văn minh", do đó ông không dùng đến
họ trong giao dich buôn bán hoặc giả không cần kiểm soát đến họ.) Ông cho rằng những
bài viết của những người theo thuyết trọng thương chỉ là những lời ngụy biện cho chính
những lợi nhuận mà họ đạt được.
Smith với Nhu Cầu Áp Đặt Công Việc
Trong khi Smith coi thường những bài viết về mậu dịch chỉ mang tính tư lợi của những
người theo thuyết trọng thương thì chính những quan điểm của ông về nhu cầu áp đặt
công việc đối với những người nhàn rỗi cũng giống như những quan điểm của những
người đi trước ông. Trong quyển 2 chương thứ ba của tác phẩm Tài sản quốc gia của
ông, ông có đề cập đến những lợi thế to lớn của lương trả cho công nhân, ông xem đó
như là "nguồn vốn", tức là xem nó như những phương tiện dùng để kích thích con người
làm việc, đó cũng có nghĩa là thu nhập, hay gọi là phần xứng đáng được hưởng của mỗi
cá nhân. Những lời ông ta đưa ra phần lớn nhằm mục đích hướng đến cái cách mà những
người có tiền sử dụng đồng tiền của họ vào mục đích tiêu thụ, cũng chính điều này làm
cho con người ta trở nên lười biếng và không muốn làm việc, nhưng thật ra ông cũng rất
ghét sự lười biếng ấy. Ông viết: "Tổ tiên của chúng ta đã quá an nhàn bởi vì họ cho rằng
ngành công nghiệp bấy giờ phát triển như thế đã đủ. Như người ta vẫn thường nói rằng
thà chơi hơn là làm việc mà chẳng được gì cả". Giống như Mun trước đây, ông cũng đưa
ra Hà Lan như một ví dụ tham khảo. "Trong những tỉnh thành chuyên về sản xuất và
buôn bán, những người thuộc tầng lớp thấp phần lớn sống nhờ vào tiền lương, họ là
những con người chăm chỉ, khoẻ mạnh, không say xỉn, và hầu như ở các tỉnh khác của
Anh và Hà Lan cũng như thế".
Đối với thái độ chán ghét "thói lười biếng" và khuyến khích "tính chăm chỉ" thì Smith
được xem như một điển hình cho những tác giả viết về kinh tế cùng thời với ông (cũng
như đối với cả những người sau này) -- họ đều đưa ra những lý lẽ biện minh cho những
người khác trong việc chuyển hầu hết nhân loại trở thành "người lao động". Không xét
đến những nhà thần học hay sự chống đối nổi tiếng (như Calvin) và quan tâm đến những
tác giả quen thuộc với lịch sử kinh tế, thì thật dễ dàng nhận thấy sự tiếp nối giữa mối
quan tâm của John Locke về vấn đề "thay thế bất kỳ khuynh hướng lười biếng nào của trẻ
em bằng những thói quen làm việc chăm chỉ," và sự chỉ trích của Smith về "những thói
quen lười biếng" của những người công nhân khác nhau. Thật vậy, về mặt ngôn ngữ ta
cũng thấy có nhiều nét tương đồng. Hãy so sánh những nghiên cứu của Locke về những
mối nguy hiểm của "thái độ thờ ơ" của trẻ với những lời phê bình của Smith về "thái độ
thờ ơ" của các công nhân của một nước trong chương mở đầu của quyển Tài sản quốc
gia:
"Thói quen thờ ơ và lười nhác vô tình trở thành những tính cách của những người công
nhân mà do tự nhiên hay do người công nhân muốn vậy cũng bắt nguồn từ sự ép buộc họ
cứ nửa tiếng lại phải thay đổi công việc thay đổi công cụ làm việc, và bàn tay họ cứ phải
làm cả 20 cách khác nhau một ngày; điều này làm họ hầu như luôn có thái độ thờ ơ và
lười biếng, và không thể chuyên tâm vào những công việc thậm chí cấp thiết"
Hãy so sánh hai quan điểm về "đạo đức trong công việc" ở trên với hai quan điểm trái
ngược khác về niềm hân hoan của thái độ thờ ơ và lười biếng. Quan điểm đầu là của
David Thoreau trong "Bài Luận Về Những Đặc Tính Tốt Của Việc Bộ Hành", quan điểm
thứ hai là của Bertrand Rusell trong bài luận về Tán Dương Thái Độ Nhàn Hạ
Thoreau: "Trong cuộc đời tôi, tôi mới chỉ biết qua một, hai người hiểu được nghệ thuật
bộ hành, người mà có biệt tài đi thơ thẩn; từ này bắt nguồn từ "những người nhàn rỗi ở độ
tuổi trung niên cứ đi lang đây đó và xin của bố thí. Họ chằng bao giờ đặt bước chân lên
vùng đất thánh như họ nói, thật ra đơn thuần họ là những người nhàn rỗi. Tuy nhiên, một
số thì bắt nguồn từ sans terre nghĩa là vô gia cư, do đo đương nhiên là không có nhà cửa
gì cả nhưng đều có mặt khắp mọi nơi. Đây chính là bí quyết thành công của những người
đi lang thang. Suốt ngày anh ta cứ ngồi trong nhà, nhưng anh ta có thể là một gã lang
thang vĩ đại, nhưng người đi thẩn thờ thì chẳng vẫn vơ khác gì dòng sông đang tìm đường
ra biển lớn."
Russell: "Trong một thế giới nơi mà không có ai bị ép buộc làm việc hơn 4 giờ một ngày,
thì ai có những đam mê khoa học riêng thì có thể theo đuổi đam mê ấy của mình, và
người hoạ sĩ có thể vẽ tranh mà không sợ bị chết đói, tuy nhiên tranh của anh ta phải có
nét gì đặc sắc. Những nhà văn trẻ sẽ không bị ràng buộc phải thu hút sự chú ý của mọi
người qua những tác phẩm kiếm cơm của họ, với quan điểm độc lập về kinh tế là cần
thiết cho những tác phẩm mang tầm vóc vĩ đại, đối với điều này, khi thời điểm đó đến, thì
họ lại mất đi niềm đam mê và khả năng thực hiện nó. […] Trên hết, cuộc sống sẽ đầy ấp
hạnh phúc và vui thú thay vì những cơn căng thẳng thần kinh, trạng thái mệt mỏi, và
chứng khó tiêu. Công việc phải tạo ra sự say mê chứ không chỉ làm cho con người kiệt
sức. Bởi vì con người bị mệt mỏi trong giờ nghĩ ngơi của họ, nên họ sẽ không đòi hỏi
những thú giải trí thụ động và nhạt nhẽo. Ít nhất có một phần trăm sẽ không chịu dành
thời gian của mình vào những nghề nghiệp của mình nhằm phục vụ cho vấn đề của cộng
đồng, và do họ không lệ thuộc vào những mục đích này nên cái tính độc đáo của họ sẽ
không gây trở ngại gì, và họ cũng không cần phải tuân theo các tiêu chuẩn do những nhà
phê bình lớn tuổi định ra. Nhưng điều này không chỉ đối với các trường hợp có thể được
chấp nhận như thế này mà do có lợi thế về sự an nhàn rãnh rỗi. Đối với những người đàn
ông và phụ nữ bình thường, thì họ sẽ càng trở nên cởi mở hơn, ít bị ngược đãi hơn, và ít
có cái nhìn nghi ngờ hơn đối với người khác. Mưu đồ tiến hành chiến tranh cũng trở nên
lụi tàn, một phần vì lý do này, và một phần do nó liên quan đến những công việc đòi hỏi
tính dài lâu và nghiêm khắc cho tất cả mọi người. Về mặt đạo đức, sự đôn hậu là một đức
tính cần thiết nhất, và nó chính là kết quả của sự nhàn hạ và an toàn, chứ không phải của
một cuộc sống đầy ấp cạnh tranh gay gắt. Những phương pháp sản xuất hiện đại đã có thể
cho tất cả mọi người sự nhàn hạ và an toàn; thay vì thế chúng ta lại lựa chọn cách làm
việc quá sức vì một mục đích nào đó và cả sự nghèo đói. Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn
cứ giữ thái độ năng động như thời chúng ta chưa có máy móc, trong trường thế này
chúng ta đã quá dại dột nhưng không có bất kỳ lý do nào bắt chúng ta dại dột mãi như
thế."
Quan điểm khác nhau giữa Smith và những người theo thuyết trọng thương chính là ông
nhấn mạnh đến nhân tố sản xuất, xem đây là một địa thế thực tế nhằm thúc đấy người ta
làm việc chứ không do nhân tố mậu dịch mà nhân tố này chỉ được xem là thứ yếu mà
thôi. Rõ ràng rất nhiều người đã bị thúc ép làm việc trên những chuyến tàu ngoại thương
- và những người này cũng như những cuộc đấu tranh của họ (như chiếm tàu, làm cướp
biển…) là nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc kháng cự rộng lớn đối với tư sản -
nhưng mặt số lượng thì họ đã kiến tạo ra một phần nhỏ của tầng lớp lao động. Khi xét
đến khía cạnh phân chia lao động quốc tế đang phát triển (như là những người nô lệ tại
Mỹ có nhiệm vụ sản xuất ra sợi cotton và sau đó chúng được chuyển sang các nhà máy
tại Anh) thì những người đi biển như vậy (là những người có nhiệm vu khuân vác, vận
chuyển và phân phát mặt hàng sợi đó qua Đại Tây Dương) về mặt nào đó thì được xem là
"bản chất" của "nhân tố toàn cầu" đang nổi bật như một dây chuyền sản xuất mang từng
bộ phận đến cho người công nhân trong cùng một tổ chức, điều này dễ hiểu và kiên định
hơn quan điểm mà Smith muốn nhấn mạnh.
Tuy nhiên, Adam Smith chỉ nổi tiếng nhờ ông đã giải thích rõ hơn những người khác đã
từng làm rằng nguồn gốc mới và quan trọng của số tài sản đang gia tăng kia thực chất là
do những công việc làm mang lại, và phải làm những công việc bị bó buộc trong các nhà
máy này của các nhà tư bản công nghiệp. Đó chính là lý do giải thích nguyên nhân tại sao
Smith lại bắt đầu quyển Tài Sản Quốc Gia của ông với những phân tích về sự phân chia
lao động trong nhà máy và những tác động của nó đến sản xuất và năng xuất lao động.
Đây cũng chính là một khía cạnh mang tính bao quát mà hầu hết các phần đều liên quan
đến phân tích những người theo thuyết trọng thương. (Và có một điểm mà người ta để ý
thấy rằng vào thế kỷ 20 nó đã không được những nhà kinh tế học quan tâm nhưng lại gây
được sự chú ý của những nhà kỹ sư công nghiệp, những nhà xã hội học, những nhà tâm
lý học.)
Smith với Trường Phái Trọng Nông
Trước khi chuyển những phân tích của Smith về những vấn đề cơ bản của xã hội hiện đại,
đầu tiên chúng ta hãy chú ý đến những quan niệm của ông về một trường phái tư duy
kinh tế khác đối lập với thuyết trọng thương: trường phái trọng nông. Như chúng ta đã
biết, những người theo thuyết trọng nông đã thay đổi những quan điểm của mình từ mậu
dịch sang hiệu suất của đất đai và nông nghiệp. Trong suốt thời gian sống tại Paris, Smith
đã có dịp gặp gỡ thảo luận với Francois Quesnay và Smith rất ngưỡng mộ con người
cũng như những quan điểm của ông ta. Mặc dù ông dành nhiều thời gian lắm cho việc
thảo luận những quan điểm của họ trong quyển Tài sản quốc gia, nhưng nói nhiều về
trường phái trọng thương, cũng bởi tư duy trọng thương có sức ảnh hưởng mạnh hơn của
trọng nông và theo quan điểm của Smith thì quan điểm đó mang nhiều tính chất sai lầm
hơn thuyết trọng nông. Thật vậy, trong chương 9 và chương cuối của quyển Tài Sản
Quốc Gia, khi ông kết tội những người trọng thương, cho rằng những lý lẽ của họ là ngụy
biện và chỉ phụ vụ cho chính bản thân họ mà thôi, trong khi đó ông lại liên tục tỏ lòng
trân trọng đối với những lời lẽ văn hoa và những lời công kích của những người trọng
nông.
Về cơ bản thì cả hai sự công kích lẫn nhau giữa hai trường phái này đối với ông đều
mang tính quan trọng cả. Đầu tiên, rõ ràng rằng tác phẩm Tableau Économique của
Quesnay cũng như những nổ lực của nó trong việc cố đạt được tình thế tái sản xuất mở
rộng của xã hội đã cuốn hút ông và có những ảnh hưởng đối với ông. Trong khi Smith
phê bình Quesnay và những người theo ông khi họ nghĩ rằng trong nông nghiệp để đạt
được năng suất thì chỉ cần mở rộng nhân tố lao động và cuối cùng lại tranh cãi đến tính
năng suất của lao động trong ngành công nghiệp, thì dường như chính ông lại kế thừa
những quan điểm được thể hiện trong quyển Tableau về sản xuất và tái sản xuất xã hội
của nhân công nói chung và áp dụng chúng vào tác phẩm của ông. Ông ta không áp dụng
hết quyển Tableau cho tác phẩm của mình nhưng nó cung cấp cho ông một điểm khởi
đầu để ông có thể mường tượng ra và phân tích về một xã hội mà tự chính nó tái sản xuất.
Tôi thiết nghĩ, đây chính là lý do giải thích tại sao ông lại viết rằng: "Tuy nhiên, hệ thống
này cùng với những gì nó còn đang dỡ dang có lẽ cũng đã gần đúng nhất với một chân lý
mà chưa được biết đến trong vấn đề kinh tế chính trị […]"
Thứ hai, ngoài việc nhân tố lao động đóng một vai trò cơ bản (hơn là đất đai), Smith còn
cho rằng đối với thuyết trọng nông nó cũng cần thiết cho một nhành "mậu dịch mở và tự
do", trong cũng như ngoài nước, xem nó như một nhân tố quan trọng để mở rộng công
nghiệp. Thật ra, mậu dịch tự do có nghĩa là thị trường tự do và đối với Smith những điều
chỉnh tự động của thị trường tự do không chỉ là phương tiện tái sản xuất của xã hội mà
còn tối đa hoá sự thịnh vượng của xã hội. Viễn cảnh chung về những thị trường tự thân
điều hoà cũng giống như sự tổng hợp cả hai quan điểm của Cantillon và Hume về những
động lực tự điều hoà của cơ chế về dòng luân chuyển và trở thành một thực thể của "bàn
tay vô hình" nổi tiếng của Smith.
[Lưu ý: sau Smith còn có một người phát ngôn cho quan điểm về mậu dịch tự do của ông,
đó là Frédéric Bastiat (1801-1850) - là một nhà kinh tế học người Pháp. Mặc dù không
phải là một lý luận vĩ đại nhưng Bastiat mang bản chất thông minh và đã công kích đến
những chính sách bảo hộ mậu dịch thậm chí còn mạnh mẽ hơn cả Smith. Không còn nghi
ngờ gì nửa, tác phẩm của ông ta - quyển Kiến Nghị (Petition) - là một quyển được nhiều
người biết đến nhất về những công kích mang tính trào phúng của ông đối với vấn đề bảo
hộ bởi vì ông đứng về phía ủng hộ cho mậu dịch tự do.]
Smith với Vấn Đề Giá Trị
Phần đầu đề của quyển đầu tiên trong tác phẩm Tài Sản Quốc Gia bắt đầu với câu:
"những động cơ nâng cao năng lực của nhân tố lao động". Vấn đề đầu tiên nhất của
chưong mở đầu là "những động cơ" (tức là sự phân chia lao động) nhưng hiện tượng về
vấn đề nâng cao mà ông ta quan tâm hàng đầu là "lao động". Nói cách khác, Smith bắt
đầu tâp trung vào phân tích công việc làm, việc làm của con người, những việc làm của
con người do những nhà tư bản tạo ra. Những nhà tư bản này không "sử dụng đồng tiền
vào công việc" mà là sử dụng nó để thúc ép người ta làm việc. Quan điểm chính của ông
về "lao động" hay "việc làm dưới chế độ tư bản" là những gì mà cuối cùng Smith tự phân
biệt "trường phái kinh tế học cổ điển" nói chung với quan điểm về vấn đề tiền và mậu
dịch của thuyết trọng thương và vấn đề đất đai của thuyết trọng nông. Smith đặc biết đã
tạo ra "lý thuyết về giá trị lao động" (Labor Theory of Value).
Cũng đã có nhiều "lý thuyết lao động" về mặt giá trị trước và sau Smith, nhưng những lý
thuyết trước thời Smith có những thể hiện mang tính triết lý hơn về vấn đề trọng tâm
chính của việc làm ngày đang gia tăng là do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, ví dụ như
những quan điểm của John Locke về vai trò cơ bản của người lao động trong sự kiến lập
"tài sản" , còn những thuyết sau Smith lại ủng hộ cho tầng lớp lao động hoặc phê phán
chủ nghĩa tư bản vì cách mà họ áp đặt công việc cho người khác đang làm huỷ hoại con
người. Mặt khác, quan điểm cuả Smith cũng dựa vào quan điểm của Locke, tập trung vào
mối quan tâm của thế giới về thay đổi cơ bản trong đời sống xã hội do tầng lớp tư bản
đang phát triển tạo ra: con người bây giờ không làm việc để sống, mà là sống để làm
việc.
Trong quyển Tài Sản Quốc Gia, Smith đã mang đến cho độc giả thuyết lao động về mặt
giá trị của ông qua những lý luận về tiền tệ và những thay đổi của giá trị tiền tệ (tiền kim
loại truyền thống) và cả những thay đổi của giá trị hàng hoá được đo bằng tiền. Những
thay đổi liên tục này khiến cho ông phải tìm kiếm một cái gì đó cố định hơn ẩn sau giá trị
của đồng tiền. Những gì ông đưa ra như một điều-bí-mật-không-thể-che-dấu của giá trị
đích thực chính là lao động (nhớ rằng ông bị ảnh hưởng những quan điểm căn bản từ
Locke và những người trước thời ông).
Một mặt, Smith đã nêu rõ quan điểm của mình về vấn đề trọng tâm chính của lao động
ngay trong câu đầu tiên của quyển Tài Sản Quốc Gia: "Lực lượng lao động hàng năm của
mỗi quốc gia chính là quỹ cung cấp cho quốc gia đó những thứ tiện nghi và cần thiết cho
cuộc sống mà quốc gia đó hàng năm cần dùng đến […]." Nhưng ở cuối chương 4 trong
tác phẩm "Nguồn Gốc Và Cách Sử Dụng Tiền Tệ" - quyển 1- ông đi vào thảo luận sâu
hơn về "mặt giá trị", ông viết "Giá trị mang hai ý nghĩa khác nhau, và đôi khi nó thể hiện
tính hữu dụng của một vật đặc biệt gì đó, đôi khi nó lại thể hiện năng lực mua quyền sở
hữu một loại hàng hoá nào đó. Nó có thể được gọi là 'giá trị sử dụng' hay 'giá trị trao đổi'.
Dĩ nhiên "giá trị trao đổi" được ưu tiên chú ý nhiều hơn, và ông dành cả chương kế tiếp
(5) để giải thích "tiêu thức đo lường thực sự của giá trị trao đổi"
Ông giải thích "tiêu thức đo lường thực sự của giá trị trao đổi đối với tất cả các loại hàng
hoá chính là lao động"
"Giá trị thực của mọi thứ- mức giá mà con người phải trả để có được những thứ đó - là
công sức mà người lao động đã bỏ ra để tạo ra nó. Giá trị mà một người thật sự phải trả
để sở hữu một loại hàng hoá hoặc tuỳ ý sử dụng hay trao đổi nó lấy một thứ khác, chính
là công sức để làm ra thứ hàng hoá đó mà anh ta tiết kiệm được và người lao động phải
gánh lấy trách nhiệm đó. Những gì người lao động dùng tiền hay hàng hoá mua về mang
một giá trị như công sức cần thiết để làm ra chúng. […] Sức lao động chính là giá trị đầu
tiên, là vật dụng mang giá trị gốc, và tiền dùng để chi trả cho mọi thứ"
Ông ta tiếp tục thảo luận về những vấn đề khó khăn khi đo lường số lượng tương đối sức
lao động đến ước tính "giá trị" đầu tiên là bằng hàng hoá (trao đổi) và sau đó là bằng tiền
(một hệ thống trao đổi được phát triển đầy đủ hơ