TÓM TẮT
Trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng hiện nay, rất nhiều v ng vốn là ven đô, là
làng trước kia đã bị nuốt vào đô thị, hoặc cận kề đô thị hình thành nên một dạng thức
làng - đô thị. Những cư dân ở các làng như vậy phần nhiều không c n là nông dân nữa
nhưng họ c ng chưa thể là thị dân và có nhiều sự thay đổi trong lối sống của họ. Từ thực
tế nghiên cứu ở một số làng cụ thể như Đồng Kỵ, Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), Xuân
Đỉnh (Từ Liêm, Hà Nội), Định Công ( uận Hoàng ai, Hà Nội), Nhân Chính ( uận
Thanh Xuân, Hà Nội), bài viết đã khái quát một số đặc điểm trong lối sống ở các làng
này hiện nay như: lối sống pha trộn nông dân - thị dân, lối sống đề cao sự kết nối cộng
đồng , lối sống thu hẹp phạm vi giao tiếp cộng đồng, lối sống cạnh tranh mang tính chất
thể diện, lối sống công nghiệp dịch vụ, và bàn luận về sự thay đổi lối sống đó đã mang
đến những vấn đề gì cho các làng quê này.
13 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Làng - Đô thị hiện nay và một số đặc điểm về lối sống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20
LÀNG - ĐÔ THỊ HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ LỐI SỐNG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHÂM(*)
TÓM TẮT
Trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng hiện nay, rất nhiều v ng vốn là ven đô, là
làng trước kia đã bị nuốt vào đô thị, hoặc cận kề đô thị hình thành nên một dạng thức
làng - đô thị. Những cư dân ở các làng như vậy phần nhiều không c n là nông dân nữa
nhưng họ c ng chưa thể là thị dân và có nhiều sự thay đổi trong lối sống của họ. Từ thực
tế nghiên cứu ở một số làng cụ thể như Đồng Kỵ, Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), Xuân
Đỉnh (Từ Liêm, Hà Nội), Định Công ( uận Hoàng ai, Hà Nội), Nhân Chính ( uận
Thanh Xuân, Hà Nội), bài viết đã khái quát một số đặc điểm trong lối sống ở các làng
này hiện nay như: lối sống pha trộn nông dân - thị dân, lối sống đề cao sự kết nối cộng
đồng , lối sống thu hẹp phạm vi giao tiếp cộng đồng, lối sống cạnh tranh mang tính chất
thể diện, lối sống công nghiệp dịch vụ, và bàn luận về sự thay đổi lối sống đó đã mang
đến những vấn đề gì cho các làng quê này.
Từ khoá: làng – đô thị, đặc điểm lối sống, nông dân – thị dân, kết nối cộng đồng,
công nghiệp dịch vụ.
ABSTRACT
In the process of rapid urbanization nowadays, many parts which used to be suburbs and
villages have been " transformed " into the urban or surrounding urban areas to form a kind of
urban-villages. Most of residents in such residence are no longer farmers, but they have not
completely become the city-dwellers and there have been many changes in their lifestyles. From
the practical research in some particular villages such as Dong Ky, Dinh Bang (Tu Son, Bac
Ninh), Xuan Dinh (Tu Liem, Hanoi), Dinh Cong (Hoang Mai District, Hanoi), Nhan Chinh
(Thanh Xuan District, Hanoi)etc the article outlines some of the characteristics of the lifestyles
in such villages nowadays- a mixture of the lifestyle of the farmers and that of the city-dwellers;
the lifestyle which promotes the community connection; the lifestyle which narrows the scope of
public communication; the competitive lifestyle of honoring faces; the lifestyle of service
industry, ... and discusses what problems these lifestyle changes have brought to these villages.
Keywords: urban- village, lifestyle characteristics, farmers – city-dwellers, community
connection, the service industry.
Nhìn lại chặng đường phát triển của
đô thị Việt Nam hơn hai chục năm qua,
chúng ta sẽ nhận thấy rõ tốc độ phát triển
nhanh chóng và có thể nói là rất "nóng"
của đô thị Việt Nam, nhất là ở các đô thị
lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng,... Từ năm 1990, các đô thị Việt
Nam bắt đầu phát triển, lúc đó, cả nước
mới có khoảng 500 đô thị. Đến năm 2000,
con số này lên 649 và năm 2003 là 656, năm
2007 là 700, đô thị và đến nay tăng lên là
754 đô thị. Về dân cư đô thị, tỉ lệ dân số đô
thị ở nước ta dưới 40%. Theo quy hoạch
phát triển đến năm 2010 con số này sẽ là 56-
60%, đến năm 2020 là 80% [1]. Xét về tốc
độ phát triển và mở rộng đô thị Việt Nam
(*)
PGS.TS, Viện Nghiên cứu văn hoá, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
21
sau 10 năm thì mỗi tháng tăng trung bình
một đô thị[2]. Với mức độ mở rộng nhanh
chóng như vậy, rất nhiều vùng vốn là ven
đô, là làng trước kia đã bị “nuốt vào” đô
thị. Có làng bỗng chốc trở thành phố, thành
phường (dù trong tâm thức và tên gọi của
người dân thì đó vẫn là làng), có làng chưa
thành phường, phố trên danh nghĩa hành
chính nhưng cũng đã thực sự nằm trong
hoặc cận kề đô thị. Những làng quê đang ở
các khu vực giáp ranh, trung chuyển, giao
thời giữa làng và phố như vậy được chúng
tôi gọi là làng - đô thị với sự nhấn mạnh
đến tính giao thoa giữa làng và đô thị ở các
khu vực này. Những cư dân ở các làng như
vậy phần nhiều không còn là nông dân nữa
nhưng họ cũng chưa thể là thị dân và vì
vậy trong lối sống, một mặt vẫn mang đậm
lối sống nông dân nhưng mặt khác lối sống
đô thị kiểu “hàng phố” cũng đã dần phổ
biến và làm biến đổi không ít cuộc sống
của họ.
Lối sống là khái niệm rất rộng với
những sắc thái biểu hiện khác nhau nhưng
nhìn chung có thể xem lối sống là “tổng thể
những hình thái hoạt động của con người,
phản ánh các đặc điểm sinh hoạt vật chất,
tinh thần của cộng đồng người đã tạo ra lối
sống đó”[3, tr.46], hay chính là “những
cách suy nghĩ, kĩ năng ứng xử (cách nghĩ,
nếp sinh hoạt, thói quen, phong cách học
tập, làm việc, giao tiếp, xử sự) tạo nên
cái riêng của mỗi cá nhân hay một nhóm
người nào đó”[4, tr.10]. Chúng tôi hiểu
rằng không có định nghĩa nào có thể bao
quát được hết những biểu hiện vốn phức
tạp và đa chiều của khái niệm lối sống song
trong bài viết này, chúng tôi đồng tình với
việc xác định nội hàm khái niệm như vậy
và sẽ cố gắng làm rõ chúng hơn bằng
những biểu hiện của lối sống ở một số làng
mà chúng tôi đã có dịp nghiên cứu.
Không tham vọng chỉ ra được hết
những đặc điểm của lối sống ở các làng -
đô thị mà chỉ từ thực tế nghiên cứu ở một
số làng cụ thể như Đồng Kị, Đình Bảng
(Từ Sơn, Bắc Ninh), Xuân Đỉnh (Từ Liêm,
Hà Nội), Định Công (Quận Hoàng Mai, Hà
Nội), Nhân Chính (Quận Thanh Xuân, Hà
Nội), chúng tôi khái quát một số đặc
điểm trong lối sống ở các làng này hiện
nay.
1. L I S NG PHA TR N N NG DÂN -
TH DÂN
Những làng quê mà chúng tôi kể đến ở
trên chỉ trong khoảng 15 năm trở về trước
vẫn còn là những làng quê khá yên bình,
nơi mà những người dân cư trú theo kiểu
“trong họ ngoài làng”, “hàng xóm tắt lửa
tối đèn có nhau”, nhưng hiện nay, các
làng này đều đã trở thành đô thị hoặc cận
kề đô thị, người dân làng bỗng chốc bị
“đẩy” ra phố, nhịp điệu mùa trong lối sống
nông nghiệp quen thuộc của họ được thay
thế bằng nhịp điệu công nghiệp của lối
sống đô thị. Họ buộc phải thích nghi với
nhịp sống mới, lối sống mới trong khi chưa
thể bỏ được nhịp sống cũ, lối sống cũ vốn
ăn sâu vào đời sống và tâm thức của họ từ
lâu. Chính vì vậy, lối sống pha trộn nông
dân - thị dân nổi bật ở những khu vực làng
- đô thị này.
Chúng tôi đã có đợt khảo sát ở phường
Đồng K (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) -
một kiểu làng - đô thị khá đặc trưng để tìm
hiểu rõ hơn về sự pha trộn lối sống nông
dân - thị dân ở đây. Đồng K vốn là một
làng quê cổ của xứ Bắc, là làng quê nông
nghiệp nhưng rất năng động với nhiều nghề
phụ như buôn trâu, dệt lụa, đánh cá, làm
mộc. Từ những năm 90 của thế kỉ XX,
Đồng K chuyển hẳn sang làm nghề đồ gỗ
mĩ nghệ, năm 2008 trở thành phường của
thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù mới
trở thành đô thị cách đây chưa lâu nhưng vì
là làng nghề nên nhịp sống công nghiệp đã
trở nên quen thuộc với dân làng. Từ cuối
những năm 90 đã có 96% các hộ trong làng
có tham gia sản xuất và buôn bán đồ gỗ mĩ
nghệ, năm 2003 đã hình thành khu công
nghiệp chuyên sản xuất và kinh doanh đồ
gỗ mĩ nghệ ngay trong làng. Vì đã gần như
22
thoát li hoàn toàn sản xuất nông nghiệp nên
nhịp sống hiện nay ở Đồng K đã rất khác
với nhịp sống nông nghiệp theo mùa vụ
trước kia nhưng toàn bộ các tiết lệ trong
năm thì hầu như vẫn giữ nguyên theo nhịp
điệu của đời sống nông nghiệp. Dân cư ở
đây có sự thong dong hơn trong việc hưởng
thụ cuộc sống. Họ biết cách phân bổ thời
gian hợp lí cho công việc và các hoạt động
vui chơi, giải trí, hưởng thụ cuộc sống. Và
chính điều này đã và đang hình thành nên
một lối sống, lối sinh hoạt mới ở làng quê
này. Lối sống nghĩa tình đậm chất làng
quê, lối sống đô thị theo kiểu hàng phố độc
lập, lối sống công nghiệp coi trọng tốc độ
và hiệu quả, lối sống thị trường coi trọng
sự hưởng thụ và sòng phẳng, tất cả đều
đang hiện hữu và trở thành những mảng
màu trong bức tranh làng - đô thị thời hiện
đại ở Đồng K . Các nhà ở đây hiện nay
đều là nhà sát nhà, tường sát tường, hầu
như ít có nhà nào còn kiểu bờ rào, bờ dậu,
mà là vườn nhà này nối vườn nhà kia; nhà
nào cũng kín cổng cao tường, cửa đóng
then cài riêng tư và độc lập, nhất là ở
những dãy phố làng mới được qui hoạch,
diện tích như nhau, cửa các nhà nhìn về
một hướng như nhau, nói vui như một vài
người dân làng Đồng Kị là “độc lập từ đất
lên đến trời” (ý nói là đất riêng, xây nhà
lên đến không gian trên gác cũng phải ngăn
cách rõ ràng dù là nhà sát tường nhau).
Điều này chi phối và phần nào thể hiện lối
sống đô thị độc lập, đề cao sự sở hữu cá
nhân và sự riêng tư của không gian sinh
sống ở mỗi gia đình. Người dân Đồng Kị.
Từ lâu đã có lối sống kiểu đô thị do họ sớm
tiếp xúc với đô thị thông qua việc buôn bán
ngay tại làng và nhiều người dân trong làng
hiện đang sống và buôn bán ở nơi đô thị cả
trong nước và nước ngoài. Đã vậy, Đồng
K lại có khu công nghiệp ở ngay trong
làng. Một bộ phận không ít hộ gia đình sản
xuất và buôn bán trong khu công nghiệp đó
khiến cho lối sống công nghiệp đã phần
nào ảnh hưởng đến dân cư ở đây. Việc tuân
thủ giờ làm việc chặt chẽ hơn, tác phong
nhanh nhẹn hơn, con người cũng năng
động hơn, hiệu quả lao động cũng được
chú trọng hơn, tất cả những điều này góp
phần đẩy nhanh hơn nhịp sống của dân
làng theo nhịp sống công nghiệp, nhịp sống
đô thị. Tuy nhiên, lối sống “trong họ ngoài
làng” vẫn được duy trì phần nào, dân làng
vẫn cư xử, giúp đỡ nhau theo kiểu “lọt
sàng xuống nia”, “họ hàng làng xóm cả”,
“tình làng nghĩa xóm”, rất hiếm trường hợp
doanh nghiệp ở Đồng K bị phá sản mà lại
không vực dậy được. Họ hàng anh em,
những người cùng làm nghề sẽ giúp đỡ
bằng rất nhiều cách (góp vốn, thu xếp thị
trường, cho vay nguyên liệu,) để doanh
nghiệp đó có thể trở lại kinh doanh được.
Điều này chắc chắn khó có được ở khu vực
đô thị trung tâm. Người dân Đồng K rất
tự hào về lối ứng xử của họ vẫn theo kiểu
“tình làng nghĩa xóm”, tôn trọng tôn ti trật
tự trong làng mà trật tự ấy được xác lập
trên cơ sở tuổi tác (trọng lão) và sự đóng
góp cho làng. Mặc dù hiện nay các gia đình
trong làng thường sống trong các không
gian khép kín hơn trước nhưng tình làng
nghĩa xóm thì không theo đó mà giảm đi,
thậm chí rất nhiều người dân ở các làng
trong khi nói chuyện với chúng tôi đều
khẳng định rằng: ý thức về làng xóm, lối
sống tình nghĩa làng quê vốn là truyền
thống tốt đẹp bao đời của họ nhưng chính
trong điều kiện kinh tế đầy đủ, xã hội phát
triển và công việc làm ăn không đến nỗi
quá vất vả như hiện nay thì họ lại có điều
kiện hơn trước kia rất nhiều để thể hiện lối
sống tình nghĩa này. Họ quan tâm thăm hỏi
nhau nhiều hơn, đặc biệt là khi các gia đình
có các việc hiếu hỉ, đau ốm, họ hỏi thăm
nhau rất kịp thời và thường xuyên làm đậm
thêm lối sống nghĩa tình vốn có ở các làng
này. Vì vậy chính việc làm đám cưới, đám
tang, đám giỗ, to ăn nhiều mâm cũng là
một hình thức thể hiện việc dân làng rất
quan tâm và tham dự đông vào các việc
hiếu hỉ của từng gia đình trong làng. Có thể
23
khái quát về lối sống ở Đồng K hiện nay
là sự đan xen giữa đô thị và nông thôn,
công nghiệp và nông nghiệp, thị trường và
tiểu nông trên nền tảng tương đối vững
chắc của lối sống tình nghĩa của làng quê
truyền thống. Điều này làm nên nét riêng
cho lối sống làng Đồng K .
Để minh chứng rõ hơn cho lối sống
đan xen nông dân - thị dân ở các làng - đô
thị, chúng tôi cũng đã khảo sát ở làng Xuân
Đỉnh (cũng là xã Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà
Nội). Dù Xuân Đỉnh chưa trở thành
phường song làng đã ở vào trung tâm của
quá trình đô thị hoá của thành phố Hà Nội.
Làng nằm ngay ở vị trí cửa ngõ phía Tây
Bắc của thủ đô Hà Nội, xung quanh đều là
các đường giao thông lớn. Trong làng hiện
có tới hơn 30 trụ sở của các cơ quan Trung
ương và thành phố Hà Nội cùng khá nhiều
các văn phòng, công ty kinh doanh khác.
Dân làng cũng rất đa dạng khi rất đông
người dân từ trung tâm thành phố Hà Nội
và nhiều nơi khác đến mua đất làm nhà ở
đây. Màu sắc đô thị rất rõ nét ở làng quê
này. Trong làng có các trục đường chính,
các nhà dân đều làm nhà hướng ra trục
đường chính này để kinh doanh tạo nên
phố trong làng. Các hình thức dịch vụ
khám chữa bệnh, thẩm mĩ viện, phòng tập,
sân tennis, quán cà phê, quán Internet, bar,
nhà hàng, khu mua sắm, đều đã có mặt ở
làng. Gần như 100% các nhà dân ở đây đều
đã được xây kiên cố theo kiểu nhà ống ở đô
thị với cách đánh số nhà, ngõ ngách như
kiểu đô thị, người dân cũng đã quen cách
sống đô thị “kín cổng cao tường”, nhịp
sống công nghiệp nhanh chóng hơn và gắn
với kinh doanh dịch vụ nhiều hơn. Có thể
nói, người dân làng Xuân Đỉnh từ hơn chục
năm nay đã hội nhập vào đô thị ngày càng
sâu sắc song bên cạnh lối sống thị dân thì
vẫn tồn tại lối sống mang đậm tính làng,
như: dân làng rất chu đáo trong việc thăm
hỏi nhau; các phong tục giỗ Tết vẫn theo
đúng nếp sống truyền thống ở làng; đám
tang hay lễ hội ở làng vẫn thu hút người
dân cả làng tham gia; dân làng, nhất là
những người cao tuổi cũng thường tụ tập,
gặp gỡ, nói chuyện với nhau ở quanh khu
vực đình làng hay những khu vực vui chơi
giải trí trong làng, người dân trong làng
vẫn sống rất “trọng cộng đồng, nặng về
tình làng nghĩa xóm”. Ở các làng khác như
Đình Bảng, Định Công, Nhân Chính,
chúng tôi cũng thấy được tình hình tương
tự. Lối sống của người dân các làng - đô thị
này luôn có sự pha trộn giữa thị dân và
nông dân do nền tảng vững chắc văn hoá
nông nghiệp và sự “đổ bộ” nhanh chóng
của đô thị hoá, công nghiệp hoá. Theo
đánh giá của chúng tôi, sự pha trộn đó nếu
ở đô thị trung tâm sẽ theo chiều hướng thị
dân - nông dân, còn ở các làng - đô thị này
thì theo hướng nông dân - thị dân, nghĩa là
lối sống nông nghiệp, nông dân vẫn thể
hiện rõ nét hơn.
Chính vì ở các làng - đô thị vẫn đang
diễn ra quá trình chuyển đổi từ nông thôn
sang đô thị nên có sự phân hoá trong lối
sống. Sự phân hoá ấy phụ thuộc vào từng
khu vực, từng đặc tính của cư dân và thời
gian tiếp xúc với đô thị. Không thể bao
quát hết được các xu hướng phân hoá trong
lối sống của cư dân làng - đô thị nên trong
nghiên cứu này, chúng tôi muốn bàn tới hai
xu hướng tưởng như trái ngược nhau, mâu
thuẫn nhau nhưng thực sự lại là hai xu
hướng phổ biến và song tồn trong lối sống
của cư dân các làng - đô thị mà chúng tôi
được tiếp xúc. Đó là lối sống đề cao sự kết
nối cộng đồng và lối sống thu hẹp phạm vi
giao tiếp cộng đồng.
2. L I S NG ĐỀ CAO SỰ KẾT N I
C NG ĐỒNG
Nếu như sự kết nối mạng lưới ở bất cứ
làng quê nào cũng quan trọng thì với
những cộng đồng làng - đô thị vùng ven
điều này càng trở nên quan trọng. Những
cộng đồng này đã không còn là làng quê
khép kín và tự trị như trước nữa. Lối sống
“hàng phố”, lối sống công nghiệp dịch vụ
nhanh chóng, sòng phẳng theo cơ chế thị
24
trường đã đủ thời gian làm thay đổi lối
sống của cư dân ở đây. Tuy nhiên, chính
trong quá trình chuyển đổi đó, các làng -
đô thị lại chứng kiến sự nổi trội của lối
sống đề cao sự kết nối cộng đồng. Điều này
rất khác với kiểu “cháy nhà hàng xóm,
bình chân như vại” được xem như đặc
trưng của lối sống đô thị.
Ví như ở Đồng K , chưa bao giờ các
loại hình tổ chức, nhóm hội ở Đồng Kị lại
nhiều về số lượng, đa dạng về lĩnh vực
hoạt động, sôi nổi về mức độ hoạt động và
tương đối quy củ về hình thức tổ chức và
quản lí như hiện nay. Trong cả phường
Đồng K nay và làng Đồng K trước kia
có các nhóm hội liên quan đến di tích, việc
tế lễ, hội hè, tín ngưỡng trong làng (Ban
quản lí di tích, Ban Khánh tiết, Ban Tư
văn, Ban chạ, Ban tế, Đoàn dâng hương,
Hội Chân qui); các hội nhóm liên quan đến
lứa tuổi (Hội đồng niên, Hội Người cao
tuổi, Hội Hưu trí); các hội nhóm liên quan
đến nghề nghiệp (Hội Đồng ng , Hội Cựu
chiến binh, Hội đồng học, Hội Nghề
nghiệp,); các hội nhóm liên quan đến y
tế, giáo dục (Hội khuyến học, Câu lạc bộ
không sinh con thứ ba, Câu lạc bộ các gia
đình nuôi con khỏe, dạy con ngoan, Câu
lạc bộ các gia đình văn hoá,); các hội
nhóm liên quan đến năng khiếu nghệ thuật
(Câu lạc bộ tuồng cổ, Câu lạc bộ chèo,
Câu lạc bộ quan họ, Câu lạc bộ thơ ca,);
các hội nhóm liên quan đến thể thao (Câu
lạc bộ dưỡng sinh, Câu lạc bộ cầu lông, xe
đạp thể thao, bóng đá, bóng bàn, phường
vật, phường cờ, nhóm đi bộ buổi sáng,
nhóm chơi tennis,); các hội nhóm liên
quan đến các thú chơi (Hội Sinh vật cảnh,
Phường chọi gà, Câu lạc bộ chơi chim
cảnh,...). Ngoài ra, trong phường còn phát
triển các nhóm chơi họ, chơi theo từng
nhóm nhỏ: nhóm bạn bè, nhóm họ hàng,
nhóm hàng xóm, nhóm cùng học, nhóm
cùng nghề, không kể lứa tuổi, nam nữ.
Các thành viên trong nhóm đóng góp một
số tiền hoặc vàng nhất định theo quy ước
của nhóm, ai bốc thăm được thì là người
cầm cái và lần lượt những người còn lại
trong nhóm sử dụng số tiền đó quay vòng
giống như hình thức vay vốn. Trong đa
dạng các hội nhóm đó, có những tổ chức,
nhóm hội đã được thành lập từ khá lâu, ví
như Hội Đồng niên đã có từ những năm 60,
Hội Tư văn đã có từ rất xa xưa, Hội Sinh
vật cảnh đã có từ những năm 80, nhưng
do nhiều lí do mà ít có những hoạt động
hoặc chỉ tồn tại trên hình thức cho đến sau
Đổi Mới mới đi vào hoạt động thường
xuyên và ngày càng phát triển như hiện
nay. Có những nhóm hội mới được thành
lập từ sau Đổi Mới cho đến gần đây như
Hội Nghề nghiệp mới có từ những năm 90,
Câu lạc bộ dưỡng sinh,Có những nhóm
hội không xác định được thời gian ra đời vì
nó vốn hoạt động rải rác và không liên tục
từ lâu trong làng nhưng trong khoảng chục
năm trở lại đây được tập hợp lại, cơ cấu lại,
và chính thức hoá ở các cấp thôn xóm hoặc
phường. Riêng các tổ chức liên quan đến
việc tế lễ, di tích, lễ hội của làng là ổn định
từ xưa nhưng đến nay hoạt động của các
ban này được tổ chức chặt chẽ với sự tham
gia của các cấp chính quyền và đông đảo
dân làng và ngày càng có vai trò quan
trọng trong việc quản lí, tu bổ di tích và tổ
chức lễ hội trong làng. Tất cả các hội nhóm
này được thành lập và hoạt động từ nhu
cầu của chính người dân và có những tác
dụng tích cực, trực tiếp và tại chỗ đối với
cuộc sống của người dân, mạng lưới quan
hệ trong làng xóm được thắt chặt hơn trong
sự giúp đỡ và quan tâm của cộng đồng.
Hình thức của các nhóm hội và cách thức
tập hợp, hoạt động như vậy cũng được thấy
ở các làng Đình Bảng, Xuân Đỉnh. Đặc biệt
trong thời gian gần đây, các nhóm hội hoạt
động tích cực hơn, có tổ chức chặt chẽ hơn,
thu hút sự tham gia nhiều hơn của cả
những người dân di cư mới đến các làng và
theo đó tính cố kết trong cộng đồng làng -
đô thị được gia tăng.
25
Một biểu hiện nữa của việc đề cao sự
kết nối mạng lưới là sức mạnh của dòng họ
được phát huy triệt để trong đời sống hiện
tại. Về cơ bản, Đồng K vẫn theo mô hình
tập hợp dân cư theo dòng họ, theo giáp, có
giáp có nhiều dòng họ, có giáp chỉ tập
trung một dòng họ nhưng lối sống tình
nghĩa “trong họ ngoài làng” vẫn rất được
tôn trọng và chi phối rất nhiều cuộc sống
của dân làng, một người có thể rất thành
công với các vị trí xã hội ở bên ngoài
nhưng trong dòng họ người đó vẫn phải
duy trì đúng tôn ti trật tự, vẫn phải thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ và các công việc
của dòng họ. Ngoài việc tham gia đóng góp
quỹ họ, giỗ họ, sửa chữa các di tích của
dòng họ, mỗi người dân làng còn tuân theo
những phong tục riêng của dòng họ, từ việc
tế lễ, chăm sóc mộ tổ, nhà thờ họ, đóng
góp giúp đỡ con em trong họ học hành,
giúp đỡ những người trong họ làm ăn cho
đến việc thực hiện những nề nếp, quy định
riêng của từng dòng họ. Chẳng hạn, riêng
họ Chử quy định mức phúng viếng, mừng
đỡ trong các đám tối thiểu tương đương giá
trị 1kg thịt, còn lại tuỳ tâm ai có hơn thì
mừng hơn. Ở Đình Bảng, Xuân Đỉnh, Định
Công, các dòng họ cũng đang có những
hoạt động rất sôi nổi tạo ra sự gắn kết,
ngoài việc chăm lo các công việc của dòng
họ như giỗ họ, chăm sóc từ đường, mộ tổ,
lập quỹ khuyến học, các dòng họ còn lo
việc tìm hiểu nguồn gốc dòng họ, thành lập
ra ban liên lạc dòng họ, ban đại diện dòng
họ, viết lịch sử dòng họ, tìm ra các chi phái
trong họ đ