Lê Đại Hành (tên húy là Lê Hoàn, 941 – 1005) là vị vua đầu tiên của nhà Tiền 
Lê, trị vì từ 980 đến 1005. Trong lịch sử Việt Nam, Lê Hoàn không chỉ là một vị 
hoàng đế có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm 
phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong 
sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước Đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là 
người tạo tiền đề, điều kiện để thời gian sau đó Lý Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ 
Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn 
hóa Thăng Long - Hà Nội, thủ đô hiện tại của Việt Nam. Xung quanh vị Hoàng đế này 
còn nhiều điều chưa được sáng tỏ như vấn đề thân thế, sự nghiệp, và thụy hiệu
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
17 trang | 
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 2365 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Lê Đại Hành - Lê Hoàn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Đại Hành - Lê Hoàn 
Lê Đại Hành (tên húy là Lê Hoàn, 941 – 1005) là vị vua đầu tiên của nhà Tiền 
Lê, trị vì từ 980 đến 1005. Trong lịch sử Việt Nam, Lê Hoàn không chỉ là một vị 
hoàng đế có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm 
phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong 
sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước Đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là 
người tạo tiền đề, điều kiện để thời gian sau đó Lý Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ 
Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn 
hóa Thăng Long - Hà Nội, thủ đô hiện tại của Việt Nam. Xung quanh vị Hoàng đế này 
còn nhiều điều chưa được sáng tỏ như vấn đề thân thế, sự nghiệp, và thụy hiệu. 
 Thân thế 
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng Bảy năm Tân 
Sửu (tức 10 tháng 8 năm 941)[3][4]. Về quê hương Lê Hoàn, vấn đề mà Ngô Thì Sĩ 
đặt ra từ thế kỷ 18, được thảo luận nhiều lần dưới thời nhà Nguyễn cho đến nay các 
nhà sử học vẫn chưa đưa ra được kết luận nơi đâu trong ba nơi: Ninh Bình, Thanh 
Hoá hay Hà Nam là quê hương của ông. Năm 1981, tại hội thảo khoa học “Lê Hoàn 
và 1000 năm chiến thắng giặc Tống xâm lược”, nhiều vấn đề chung về thế kỷ X, về 
quê hương, thân thế, sự nghiệp của ông bước đầu được giải quyết. Đến năm 2005, tại 
hội thảo “1000 năm Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn”, trải qua một chặng 
đường đổi mới của sử học, nhiều vấn đề về quê hương của Lê Hoàn được đào sâu và 
nhìn nhận lại theo chiều hướng thoáng rộng hơn. Tựu chung có các ý kiến sau: 
Trường Châu (Ninh Bình) 
Việt sử lược[5] viết từ thời Trần ghi là: “Đại Hành vương húy là Hoàn, họ Lê, 
người Trường Châu”. Trường Châu là vùng đất kinh đô Hoa Lư, Ninh Bình.[6] PGS, 
TS. Trần Bá Chí trước từng viết rất công phu về quê hương, dòng dõi Lê Đại Hành 
cho rằng ông người Ái Châu (Thanh Hoá), thì tại hội thảo 2005 cũng khẳng định rằng 
quê gốc vua là Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình.[7] Các nhà nghiên cứu Mai Khánh 
(Bảo tàng Hà Nam) và TS. Vũ Văn Quân đồng ý rằng Lê Hoàn là người Trường Châu 
nhưng cho rằng Trường Châu bao gồm cả Ninh Bình và HàNam[8]. 
Đại Việt sử ký toàn thư[9], Lịch triều hiến chương loại chí [10] ghi: “Vua họ 
Lê, tên húy là Hoàn, người Ái Châu”. Cùng quan điểm sách “Các triều đại Việt Nam” 
còn cho rằng mẹ Lê Hoàn là Đặng Thị Sen chứ không gọi là Đặng Thị.[11] An Nam 
Chí Lược của Lê Tắc thời Trần, mục Lê nhị thế gia chép: “Lê Hoàn, người Ái Châu, 
có chí lược, được lòng quân sĩ”. Website chính thức của tỉnh Thanh Hóa cũng khẳng 
định Lê Hoàn là người quê hương mình.[12] Đại Nam nhất thống chí chép: “Miếu Lê 
Đại Hành hoàng đế ở xã Trung Lập, huyện Thuỵ Nguyên, chỗ này là nền nhà cũ của 
tiên tổ nhà vua” song mục tỉnh Hà Nội lại chép “mộ tổ Lê Đại Hành ở bên miếu xã 
Ninh Thái, huyện Thanh Liêm”. 
Bảo Thái (HàNam) 
Đại Việt sử ký tiền biên [13] ghi: “Xét thấy Lê Đại Hành Hoàng đế người làng 
Bảo Thái, huyện Thanh Liêm chứ không phải Ái Châu, sử cũ chép nhầm”. Cuốn 
ViệtNamsử lược,[14] Từ điển nhân vật lịch sử ViệtNam, Khâm định Việt sử thông 
giám cương mục, Việt sử tiêu án đều ghi: “Lê Hoàn quê ở làng Bảo Thái, huyện 
Thanh Liêm” . Nhà sử học Trần Quốc Vượng cho rằng Lê Hoàn sinh ở Thanh Liêm, 
HàNamvà theo ông, Thanh Hóa chỉ có thể là quê ngoại hay quê bố nuôi Lê Hoàn.[15]. 
Lịch sử Hà Nam Ninh cũng đã nhận định: “Lê Hoàn quê nội ở Thanh Liêm (Hà Nam), 
quê ngoại ở Kẻ Sập (Thanh Hoá), Tuy sinh ở đất Ái Châu nhưng ông chỉ sống ở đấy 
hơn 10 năm, sau trở về Thanh Liêm”.[16] GS. Lê Văn Lan cũng cho rằng Lê Hoàn “là 
đứa trẻ mồ côi ở làng Kẻ Sập - quê ngoại, chàng trai nghèo ở miền Bảo Thái quê 
nội”[17]. Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố, sau khi điểm lại một số nhận định của các cuốn 
sử cũ đã nêu quan điểm: Thanh Liêm là nguyên quán của cha mẹ. Ái Châu là chỗ ở 
của cha nuôi, mỗi quyển chép theo một nghĩa” [18] ĐạiNamnhất thống chí của Quốc 
sử quán triều Nguyễn, phần ghi về lăng mộ ở huyện Thanh Liêm chép: “Mộ tổ Lê Đại 
Hành ở bên miếu xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm[19]. Sử cũ cũng nhắc tới Trần 
Bình Trọng quê ở xã Thanh Liêm là hậu duệ của Lê Hoàn. Vị danh tướng thời Trần 
này được ban quốc tính vì có nhiều công trạng. Website chính thức của tỉnh 
HàNamcũng khẳng định Lê Hoàn là người quê hương mình.[20] 
Ý kiến dung hòa 
Thần tích Lê Hoàn tại lăng vua Lê, làng Ứng Liêm (HàNam)[21] giải thích có 
vẻ “hợp tình, hợp lý” tất cả những vấn đề khúc mắc về quê quán, xuất thân của Lê 
Hoàn. Thần tích cho biết ông sinh ra ở xã Trường Yên, Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ông 
nội là Lê Lộc và bà nội là Cao Thị Phương; cha là Lê Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết. 
Nhà nghèo nên đã về xã Ninh Thái, Thanh Liêm, HàNamlàm nghề chài lưới, đơm đó 
bắt cá. Ngày mùng 10 tháng Giêng năm Nhâm Dần (tức 29 tháng 1 năm 942) sinh ra 
ông. Năm lên 7 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải làm con nuôi quan án châu Ái 
(Thanh Hoá). 
Các nhà sử học cho rằng vấn đề quê hương Lê Hoàn còn phải tiếp tục nghiên 
cứu. Điều dễ nhận thấy là cả Ninh Bình, Thanh Hóa và Hà Nam đều gắn bó mật thiết 
với cuộc đời và sự nghiệp của vị vua này. 
Lên ngôi 
Cha mẹ qua đời sớm, Lê Hoàn được một vị quan là Lê Đột nhận về nuôi. Lớn 
lên ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và đã lập được nhiều chiến công, Đinh Bộ 
Lĩnh giao cho ông chỉ huy 2.000 binh sĩ. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong 
loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên nhà Đinh. Lê Hoàn có công lao trong 
cuộc đánh dẹp và được giao chức vụ Thập đạo tướng quân (tướng chỉ huy mười đạo 
quân), Điện tiền đô chỉ huy sứ - tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ 
Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ông mới 27 
tuổi. 
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Vệ 
vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính, tự do ra 
vào cung cấm. Các đại thần thân cận của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, 
Trịnh Tú, Lưu Cơ cùng tướng Phạm Hạp nổi dậy chống lại Lê Hoàn nhưng bị Lê 
Hoàn nhanh chóng đánh dẹp, ba người đều bị giết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn 
vào nam, cùng vua Chiêm Thành với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô 
Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết. 
Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc có ý định cho quân 
tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt. Vua Tống nhiều lần viết thư sang dụ và đe dọa triều 
Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng: "...Nếu quy phục thì ta tha cho, bằng trái lệnh thì ta 
quyết đánh..." Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng Phạm Cự 
Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi (sử cũ gọi là Lê 
Đại Hành), lấy tôn hiệu là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng 
Hiếu Hoàng đế, niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại 
Hoa Lư. Lê Đại Hành cử Phạm Cự Lạng (Lượng), em của Phạm Hạp làm đại tướng 
quân. 
Về các biến cố chính trị liên quan đến cái chết của Đinh Tiên Hoàng và Đinh 
Liễn, có các nhà nghiên cứu, như Hoàng Đạo Thúy, đặt giả thiết không phải Đỗ Thích 
mà chính Lê Hoàn, cấu kết với Dương Vân Nga, đã ám sát Đinh Tiên Hoàng và con 
trưởng để chiếm ngôi (xem bài Đinh Tiên Hoàng). Việc Lê Đại Hành lấy Dương thái 
hậu nhà Đinh, các sử gia phong kiến rất nặng lời chê trách. Trong Đại Việt sử ký toàn 
thư, Ngô Sĩ Liên viết: 
“Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của 
Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính 
đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất 
cả lòng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm 
dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đầu mối họa đó sao?" 
Hoàng Xuân Hãn viết trong Hoàng Xuân Hãn tuyển tập: "...việc này trái với 
khuôn phép nhà nho. Các sử gia nho xưa đã trịnh trọng chỉ trích như Ngô Sĩ Liên, 
Ngô Thì Sĩ... 
Khi đưa ra nhận định trên, có thể các sử gia không chú ý vào thế kỷ 10 đời 
Đinh, Tiền Lê đạo Nho chưa có ảnh hưởng gì sâu vào dân Việt. Sau này, đến nửa đời 
Trần vẫn còn như vậy. Dân chúng đã lập đền thờ các vua Đinh Lê trên nền tảng cung 
điện Hoa Lư mà không quên bà Dương hậu, xưa còn tự hợp hai vua tô tượng hai vua 
ngồi chung một toà với Dương hậu ở giữa. Nhưng đến đầu đời Lê Thái Tổ cho là trái 
đạo mà bỏ đi! Tuy vậy các nho gia phê bình cũng không ai trách bà mà chỉ trách Lê 
Hoàn bởi cho rằng bậc quân tử "danh chính thì ngôn mới thuận". Còn như Dương hậu 
âu cũng chỉ là đàn bà, có trách cũng bất kể. 
Phá Tống - bình Chiêm 
Phá Tống 
Lê Hoàn đại phá quân Tống năm 981 
Bài chi tiết: Chiến tranh Tống - Việt, 981 
Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt, cử các tướng 
Hầu Nhân Bảo, Trần Khâm Tộ, Tôn Toàn Hưng, Triệu Phụng Huân, Quách Quân 
Biện, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn cầm quân chia hai đường thủy bộ. Cánh bộ 
đi theo ngả Lạng Sơn còn thủy thì tiến vào sông Bạch Đằng.[22] 
Mùa xuân tháng Ba (4-981), quân của Hầu Nhân Bảo đến Ngân Sơn, Trần 
Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng, vua tự làm tướng đi chống 
Tống, sai người cắm cọc ngăn sông.[23] Tại sông Bạch Đằng, thủy quân Tống bị quân 
Đại Cồ Việt chặn đánh, những chiến thuyền Tống cũng bị thủng bởi những chiếc cọc 
sông dày dặc cho dù rất mạnh về thế trận. Vì thế quân Tống không thể tiến sâu vào nội 
địa được. Thủy quân Tống thất bại. Tôn Toàn Hưng dừng quân hơn 70 ngày, chần chừ 
không dám tiến. Hầu Nhân Bảo thì hiếu chiến hơn, tự đem quân tiến theo sông 
Thương. Khi quân Hầu Nhân Bảo kéo đến Chi Lăng, Lê Hoàn giả vờ xin hàng để 
đánh lừa Nhân Bảo rồi phục binh đổ ra đánh dữ dội. Số quân địch hơn phân nửa bị 
tiêu diệt.[24] 
Sau hai trận thắng lớn Bạch Đằng, Tây Kết, quân Lê giết được Hầu Nhân Bảo, 
bắt sống Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân. Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực, 
Tôn Toàn Hưng, Vương Soạn cũng vội vàng rút chạy về nước. Lê Hoàn đã không 
thực hiện được trận mai phục bằng sự kết hợp giữa phục binh và trận địa cọc ngầm vì 
chiến sự lúc này diễn ra không được mau lẹ, thuận lợi như trận Bạch Đằng của Ngô 
Quyền đánh Nam Hán. Thực tế, chiến sự trên sông Bạch Đằng trong kháng chiến 
chống Tống lần thứ nhất diễn ra nhiều lần, nhiều đợt với những trận đánh khác nhau. 
Bình Chiêm 
Khi người Việt chìm dưới ách nô dịch của phong kiến phía Bắc thì ở phía Nam, 
người Chiêm Thành đã sớm xây dựng được quốc gia độc lập tự chủ từ năm 192. Sinh 
sống ở các thung lũng Nam Trung Bộ hẹp và nhỏ, vương quốc Chiêm Thành có thế 
mạnh về hàng hải và các ngành nghề thủ công, nhưng lại thiếu những miền châu thổ 
rộng lớn. Bởi vậy, từ khi lập nước, Chiêm Thành liên tục tiến hành các hoạt động 
quân sự với Đại Cồ Việt.[25] Năm 803, vua Chiêm sai viên tướng Senapati Par đem 
quân xâm phạm An Nam, vây hãm phía nam quận Cửu Chân. Năm 979, quân Chiêm 
được Ngô Nhật Khánh dẫn đường, tổ chức lực lượng thuỷ quân hùng hậu tiến đánh 
Hoa Lư theo đường biển, nhưng bị tan vỡ vì gặp bão ở cửa Thần Phù.[26] 
Năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Canh và Từ Mục đi sứ Chiêm Thành bị vua 
Chiêm bắt giữ. Lê Hoàn tức giận, “sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng 
đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to. Bắt sống được quân sĩ nhiều 
vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các 
đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì, phá hủy 
tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư”.[27] Các nghiên cứu thống kê cho thấy, 
trong vòng 26 năm trị vì, Lê Hoàn là người đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía nam, 
đã tiến hành 6 hoạt động quân sự lớn ở đây trong số 10 hoạt động quân sự lớn suốt 
thời gian trị vì của ông, vua đích thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các thế lực 
cát cứ và xâm lấn, không chỉ bảo vệ vững chắc miền biên giới, mà còn trực tiếp chuẩn 
bị cho quá trình Nam tiến của người Việt, mở rộng thêm cương giới lãnh thổ của quốc 
gia Đại Việt. 
Sự nghiệp trị vì 
Phát triển kinh tế 
Lê Đại Hành khi làm vua cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất 
nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước. Ông là vị vua mở đầu cho lễ 
tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế độ phong kiến ViệtNam. 
Mở đầu cho một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến 
khích phát triển sản xuất nông nghiệp. 
Lê Đại Hành cũng là vị vua đầu tiên tổ chức đào sông. Công trình đào sông 
Nhà Lê (hiện vẫn còn ở Thanh Hóa và là một di tích lịch sử) do Lê Hoàn khởi dựng là 
con đường giao thông thuỷ nội địa đầu tiên của ViệtNam. Sự nghiệp mở đầu vĩ đại đó 
đã trở thành phương châm hành động của các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau này. Từ 
con sông đào do Lê Hoàn khai phá trên đất Thanh Hoá, đến thời Lý, Trần sông đào đã 
xuất hiện ở đồng bằng Bắc Bộ đến Thanh-Nghệ-Tĩnh. Đến thời Lê đã rộng khắp dải 
miền Trung Bộ và đến thời Nguyễn thì sông đào có mặt ở khắp mọi miền Việt 
Nam.[28] 
Ngoại giao 
Lê Hoàn là người mở đầu và xác lập những nguyên tắc cơ bản của nền ngoại 
giao Đại Việt. Nhà Tống là triều đại phong kiến hùng mạnh nhất châu Á đương thời 
mang nặng tư tưởng bành trướng đã phải từng bước thừa nhận sức mạnh, thế lực của 
quốc gia độc lập Đại Cồ Việt, đã phong cho Lê Hoàn các tước vị cao như Giao Chỉ 
quận vương, Nam Bình vương, sứ thần Tống còn làm thơ tôn Lê Hoàn tài ba không 
khác gì vua Tống. Phan Huy Chú đánh giá: “Nhà Tiền Lê tiếp đãi sứ nhà Tống, tình ý 
và văn thư rất là chu đáo. Khúc hát hay cũng đủ khoe có nhân tài mà quốc thể được 
thêm tôn trọng làm cho người Bắc phải khuất phục”. 
Vua sử dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng cương quyết. 
Có lần sứ Tống sang đòi vua quỳ nhận sắc phong của vua Tống, Đại Hành lấy cớ bị 
đau chân nên không quỳ. Sứ Tống không làm gì được. Để tránh việc đón tiếp sứ giả 
phiền hà tốn kém, Lê Đại Hành còn đề nghị nước Tống từ lần sau hãy cử sứ giả đưa 
thư đến địa giới và báo tin, triều đình Hoa Lư sẽ sai người lên biên giới để nhận chiếu 
thư của vua Tống. Vua Tống cũng chấp thuận.[29] Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhà 
vua còn bố trí sư Pháp Thuận giả làm người chở đò ra đón sứ giả Lý Giác. Câu 
chuyện hai người đã mượn bài thư Vịnh ngỗng của Lạc Tân Vương đời Đường để nối 
vần đối đáp với nhau nhân có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, đã khiến Lý Giác rất 
thích thú và bị chinh phục đã trở thành giai thoại thú vị trong bang giao và văn học. 
Sau đó, về sứ quán Lý Giác đã làm một bài thư gửi tặng ngỏ ý “tôn Lê Hoàn không 
khác gì vua Tống” như lời Khuông Việt đại sư nói.[30] 
Hai áng văn dưới thời Lê Đại Hành 
PGS. Bùi Duy Tân[31] phát hiện bài thơ Nam quốc sơn hà, một kiệt tác văn 
chương, cũng đồng thời là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam xuất 
hiện đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất của Lê Hoàn và cũng 
được Lý Thường Kiệt vận dụng ở lần kháng chiến chống Tống thứ hai. PGS.TS Trần 
Bá Chí cũng khẳng định: Nam quốc sơn hà là bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra 
đời sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn 
lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà là ở thời Vua Lê Đại Hành chống 
Tống khi thể chế, ngôi vị đã vững vàng, an định[32]. 
Kiệt tác thứ hai, ở triều đại hoàng đế Lê Hoàn là một bài ngũ ngôn tuyệt cú của 
nhà sư Pháp Thuận. Đây là bài thơ có tên tác giả xuất hiện sớm nhất, nên được đặt vào 
vị trí khai sáng cho văn học cổ dân tộc. Cũng nhưNamquốc sơn hà, Quốc tộ là bài thơ 
giàu sắc thái chính luận, một bài thơ viết về những vấn đề chính trị xã hội hiện hành 
của đất nước. Để trả lời nhà vua “hỏi về vận nước ngắn dài”, nhà thơ đã lấy ngôn từ 
giản dị mà thâm thúy, bày tỏ chính kiến của mình: “Vận mệnh nước nhà dài lâu, bền 
vững khi nhà vua dựng mở được nền thái bình bằng phương sách “. NếuNamquốc sơn 
hà có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, thì các nhà nghiên cứu khẳng định Quốc 
tộ có giá trị như một bản tuyên ngôn hòa bình. Hai bài thơ là hai kiệt tác văn chương 
bổ sung cho nhau, hoàn thiện Tuyên ngôn độc lập, Tuyên ngôn hoà bình đầu tiên của 
dân tộc, chính là cột mốc khai sáng văn học Việt Nam. 
Niên hiệu 
Giữa năm 1005, vua băng. Ông ở ngôi tất cả 26 năm, thọ 65 tuổi. Trong 26 
năm làm vua, ông đặt 3 niên hiệu: 
Thiên Phúc (980 - 988) 
Hưng Thống (989 - 993) 
Ứng Thiên (994 - 1005) 
Vợ con 
Đình Hoa Xá - Minh Ngự Lâu xã Tả Thanh Oai (Thanh Trì- Hà Nội), nơi thờ 
Lê Hoàn và người con gái làng Tó 
Phủ Vườn Thiên ở Cố đô Hoa Lư, nơi thờ hoàng tử Lê Long Thâu, con cả Lê 
Hoàn 
Lê Đại Hành có 5 hoàng hậu gồm Đại Thắng Minh Hoàng Hậu (Dương Vân 
Nga), Phụng Càn Chí Lý Hoàng hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng hậu, Trịnh Quắc 
Hoàng hậu và Phạm Hoàng hậu. 
Sử cũng chép một người vợ khác của ông, sinh cho ông ít nhất 2 người con là 
Lê Long Việt và Lê Long Đĩnh. Sách Việt sử lược chép sơ hầu di nữ , Đại Việt sử ký 
toàn thư chép chi hậu diệu nữ . Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục Chính 
biên chép bà là con gái quan Chi hậu tên là Diệu, không rõ họ là gì. Về sau bà được 
con trai Long Đĩnh truy tôn hiệu là Hưng Quốc quảng thánh Hoàng thái hậu. 
Lê Đại Hành có 11 người con trai, 1 người con nuôi, đều được phong vương: 
Lê Long Thâu làm Kình Thiên đại vương (phong năm 989), từng tham gia 
chiến tranh Việt - Tống 981, được Lê Đại Hành phong làm Thái tử. Tuy nhiên, đến 
năm 1000 thì mất. 
Lê Ngân Tích (Long Tích) làm Đông Thành vương (phong năm 989), sau khi 
Lê Đại Hành mất, Lê Long Tích cùng các em tranh ngôi với Lê Long Việt. Song, năm 
1005, bị Lê Long Việt giết chết. 
Lê Long Việt làm Nam Phong vương (phong năm 989), sau là vua Lê Trung 
Tông). Sau 3 ngày ở ngôi vua, bị Lê Long Đĩnh giết chết năm 1005. 
Lê Long Đinh làm Ngự Man vương (phong năm 991), đóng ở Phong Châu, 
tỉnh Phú Thọ. 
Lê Long Đĩnh làm Khai Minh vương (phong năm 992), đóng ở Đằng Châu, xã 
Bắc Kiên, Kim Động, Hải Dương , sau là vua Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế. 
Lê Long Cân làm Ngự Bắc vương (phong năm 991), đóng ở Phù Lan, sau là 
Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Hưng. Hiện nay, thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh 
Hưng Yên. 
Lê Long Tung làm Định Phiên vương, đóng ở Tư Doanh, Ngũ Huyện Giang, 
Thanh Hóa (phong năm 993). 
Lê Long Tương làm Phó vương, đóng ở Đỗ Động Giang, Hà Tây (phong năm 
993). 
Lê Long Kính làm Trung Quốc vương, đóng ở Càn Đà, Mạt Liên (phong năm 
993), sau bị giết năm 1005. 
Lê Long Mang làm Nam Quốc vương, đóng ở Vũ Lung (phong năm 994). 
Lê Long Đề (Minh Đề) làm Hành Quân vương, đóng ở Bắc Ngạn, Cổ Lãm 
(phong năm 995). 
Con nuôi Dương Hy Liễn làm Phù Đái vương, đóng ở Phù Đái (phong năm 
995). 
Lê Thị Phất Ngân hoàng hậu của vua Lý Thái Tổ, mẹ của Lý Thái Tông, được 
Lý Thái Tông phong là Linh Hiển hoàng thái hậu 
Tất cả các con trai Lê Hoàn đều được phong vương, nhưng sau khi con trưởng 
là Thâu mất (1000), vua Lê không sớm lập người kế vị. Điều đó đã gây ra việc tranh 
giành quyền bính giữa các con của ông sau này, là một trong những nguyên nhân dẫn 
tới sự sụp đổ của nhà Tiền Lê. 
Nhận định 
Về vua Lê Đại Hành, Sử nhà Tống dẫn lời Tống Cảo, người đi sứ sang Đại Cồ 
Việt đã từng gặp Lê Hoàn mô tả ông là “con người mắt lé” nhưng “hung hãn” và “có 
chí vác cả núi ngăn cả bể”[33]. Ngô Sĩ Liên với tư tưởng Nho giáo nhận xét: “Vua 
nhân gian dâm trong cung mà lấy được nước, dẹp giặc bên ngoài để yên dân, trong 
nước lặng yên, BắcNamvô sự”[34] 
Tài cầm quân 
Trong sử sách, các sử gia nhiều đời cùng có nhận định về Lê Đại Hành. Ca 
ngợi võ công của ông, Lê Văn Hưu viết: 
"Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân 
dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp 
chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được." 
Trong thời dẹp loạn 12 sứ quân, Lê Hoàn đã sớm bộc lộ tài năng, tuy nhiên do 
còn trẻ tuổi nên chức vụ của ông vẫn ở dưới các bạn thân thiết của Tiên Hoàng. Chỉ từ 
khi làm nhiếp chính, trực tiếp nắm vận mệnh đất nước, tài năng của ông mới được thi 
triển hết. Chẳng những các công thần khai quốc kỳ cựu của nhà Đinh mà ngay cả các 
tư