Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015) - Phần 2

Tính đến cuối năm 1996, cả nước chỉ có ba thành phố trực thuộc Trung ương: Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hải Phòng. Đầu năm 1997, Đà Nẵng được tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng để trở thành thành phố thứ tư trực thuộc Trung ương. Trong lịch sử, Đà Nẵng từng trực thuộc Trung Kỳ/ Trung Bộ theo Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và “Đà Nẵng 3 quận” từng là một thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương ở Sài Gòn trong giai đoạn 1954-1975. Tuy nhiên, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong một đất nước độc lập, thống nhất, trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI) là bước chuyển mình đầy ấn tượng của Đà Nẵng trong tiến trình lịch sử. Từ khi thành phố kiến nghị được chia tách tỉnh (tháng 5 năm 1989) đến khi chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (ngày 01 tháng 01 năm 1997) cũng là khoảng thời gian Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung chuẩn bị cho mình một tâm thế cũng như những phương án chia tách tỉnh, chính vì vậy chỉ trong một thời gian rất ngắn đã nhanh chóng thống nhất được một phương án chia tách tối ưu trình Quốc hội xem xét, thông qua. Đây là một sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển của Đà Nẵng sau này. Thành phố Đà Nẵng mới, trực thuộc Trung ương có một số đặc thù về lịch sử, địa lý và trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động mà Đảng bộ thành phố đã xác định để có hướng quy hoạch, phát triển trong thời gian tới. Thứ nhất, tính đến cuối năm 1996, huyện Hòa Vang thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng là huyện được chia tách nhiều nhất để thành lập các quận mới và cho đến nay là huyện duy nhất chưa có thị trấn huyện lỵ. Một lần nữa, lịch sử lại giao phó cho Hòa Vang sứ mệnh phải xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng quê hương tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với huyện đảo Hoàng Sa, chuyển từ trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng sang trực thuộc thành phố Đà Nẵng. Thời điểm này (1997) đã là 23 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, khiến Đà Nẵng trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh “duy nhất” trong cả nước còn nguyên một huyện bị ngoại bang xâm chiếm. Thứ hai, sau khi thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, so với các tỉnh, thành khác trong cả nước, thì chính quyền thành phố Đà Nẵng quản lý một quy mô dân số hết sức vừa phải: 663.115 nhân khẩu, với số đầu mối quận huyện, xã phường cũng rất gọn: 5 quận, 2 huyện và 33 phường, 14 xã. Chính đặc thù “hết sức vừa phải” và “rất gọn” này là tiền đề quan trọng để chính quyền Đà Nẵng có thể tập trung đẩy mạnh quy mô và tiến độ đô thị hóa - điều khó khả thi trong bối cảnh một thành phố trực thuộc tỉnh như trước năm 1997. Tuy nhiên, việc thành phố Đà Nẵng ít dân và có diện tích nhỏ hẹp cũng là một khó khăn, thử thách trong việc hướng đến xây dựng một thành phố lớn, là thành phố động lực của khu vực miền Trung như thị trường nhỏ hẹp, tài nguyên đất có hạn, quy mô nền kinh tế nhỏ Nhưng xét nhiều mặt thì thực trạng dân số Đà Nẵng thập niên vừa qua vẫn phải được xem là ưu thế, là lợi thế so sánh, nhất là trong việc xử lý những vấn nạn của đô thị như giải quyết việc làm, phát triển nghề nghiệp và định hướng sinh kế. Thứ ba, thời điểm thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương vào đầu năm 1997, rơi vào thời điểm khởi đầu thời kỳ suy giảm của nền kinh tế đất nước kéo dài đến hết thế kỷ XX: “Giai đoạn từ 1991 đến 1996, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng từ năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế châu Á năm 1997-1999, tốc độ tăng trưởng GDP giảm dần, năm 1999 chỉ còn 4,9% so với 9,5% năm 1996. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên nhưng chưaLỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) 237 cao và vững chắc”(1). Bởi vậy, ra riêng trong một cục diện kinh tế suy thoái như vậy, Đà Nẵng khó có thể bứt phá để nhanh chóng cải thiện điểm xuất phát thấp của mình ngay từ những năm đầu chia tách. Tuy nhiên, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực trực thuộc Trung ương đã mở ra thời kỳ mới, thành phố có nhiều điều kiện hơn trong việc phát huy các tiềm năng, thế mạnh vốn có để phát triển thành vùng động lực thúc đẩy khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

pdf263 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (1975-2015) - Phần 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
227 Chương Năm NHỮNG NĂM ĐẦU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG (1997 - 2000) I. BƯỚC CHUYỂN MÌNH CỦA MỘT THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG Bốn năm cuối cùng của thế kỷ XX, có ý nghĩa rất quan trọng đối với lịch sử Đà Nẵng nói chung và lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng nói riêng. Đây là giai đoạn có tính chất bản lề giữa hai chặng đường phát triển của thành phố “đầu biển cuối sông” kể từ ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Chặng đường đầu tiên là giai đoạn của một đô thị loại II cùng với huyện đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép và huyện nông thôn Hòa Vang đa phần là rừng núi. Chặng đường thứ hai là giai đoạn của một đô thị loại I - thành phố trực thuộc Trung ương đang vươn lên trở thành “một chấm son trên bản đồ Tổ quốc” - đúng như mong muốn của Bác Hồ khi nghĩ về mảnh đất này. Những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm đổi mới của Đảng, đã tạo nên thế và lực mới để nước ta bước vào một giai đoạn mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vị thế Việt Nam được nâng cao trong khu vực và trên thế giới. 228 BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Trong bối cảnh đó, thành phố Đà Nẵng cũng từng bước chuyển mình đi lên. Vai trò của Đà Nẵng ngày càng được khẳng định đối với sự phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Trước yêu cầu mới của tình hình, Đà Nẵng cần có chính sách, cơ chế đồng bộ riêng để bức phá đi lên. Đồng thời, thể theo nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, ngay từ Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng vào tháng 5 năm 1989, đã kiến nghị với Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng cho phép thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương; nếu chưa đủ điều kiện thì cho Đà Nẵng trở thành Đặc khu kinh tế của duyên hải miền Trung hoặc Khu kinh tế mở. Tiếp tục tinh thần đã được kiến nghị của Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng, Đại hội lần thứ XV Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (từ ngày 16 đến 19 tháng 10 năm 1991), đã đề nghị Trung ương cho tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu chưa tách thì cho một quy chế của Đặc khu kinh tế. Tiếp theo đó, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (khóa XVI) được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng (là Đại hội cuối cùng của Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng), diễn ra từ ngày 23 đến 27 tháng 4 năm 1996, đã kiến nghị chia tách Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Ngày 08 tháng 10 năm 1996, đồng chí Mai Thúc Lân - Bí thư Tỉnh ủy, nhận được Công điện số 75/CCHC/TW của Trung ương nêu rõ: Bộ Chính trị đã có Thông báo số 06/TB-TW ngày 07 tháng 10 năm 1996 về việc nhất trí chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh ủy phải chỉ đạo hoàn tất thủ tục để kịp trình Quốc hội quyết định trong cuộc họp giữa tháng 10 này. Với tinh thần rất khẩn trương, ngày 09 tháng 10 năm 1996, Thường trực Tỉnh uỷ đã có cuộc họp liên tịch với Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường trực Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) 229 trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh để bàn việc triển khai Công điện của Trung ương về chia tách tỉnh. Vấn đề được đặt ra cấp thiết nhất là chia tách địa giới hành chính của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng theo phương án nào là thích hợp nhất để trình lên Quốc hội. Lúc này, có 4 phương án chia tách được đặt ra để tạo nên địa giới hành chính phù hợp với một Đà Nẵng trực thuộc Trung ương: + Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại và các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, thị xã Hội An. + Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. + Gồm thành phố Đà Nẵng và thêm một số xã phụ cận của Hòa Vang và Điện Bàn. + Gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại và các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, thị xã Hội An. Trong thảo luận, có ý kiến đề nghị chia thành Quảng Nam và Quảng Đà như trước khi giải phóng và địa bàn Đặc khu Quảng Đà trước đây sẽ gọi là thành phố Đà Nẵng - bao gồm cả huyện đảo Hoàng Sa. Vì có quá nhiều phương án và ý kiến thảo luận cũng rất khác nhau, nên Thường trực Tỉnh ủy kết luận chỉ chọn phương án 1 và 2, là hai phương án có tính hợp lý và khả thi hơn cả, đồng thời giao Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh phân tích cụ thể hai phương án trên để Hội nghị liên tịch tiếp tục làm việc. Ngày 11 tháng 10 năm 1996, Hội nghị Tỉnh uỷ đã nghe Uỷ ban nhân dân trình bày 2 phương án được xem là hợp lý nhất. Theo đó, Tỉnh uỷ đã biểu quyết chọn phương án 2 (tức gồm thành phố Đà Nẵng hiện tại, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa); đồng thời, giao Uỷ ban nhân dân tiếp tục chuẩn bị, hoàn thiện cả hai phương án trên để trình Hội đồng nhân dân. Ngày 12 tháng 10 năm 1996, Hội đồng nhân dân tỉnh đã họp (bất thường) để thảo luận và biểu quyết phương án chia tách. 230 BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Cuối cùng, Hội đồng nhân dân thống nhất chọn phương án được xem là tối ưu: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương được hình thành từ ba đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng gồm thành phố tỉnh lỵ “Đà Nẵng 3 khu vực”, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa, đồng thời nhất trí lấy thị xã Tam Kỳ làm tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam. Tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 10 (khóa IX), diễn ra từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 12 tháng 11 năm 1996, đã bàn nhiều việc quan trọng của đất nước. Đặc biệt, ngày 06 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”. Trong đó xác định: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương có 7 đơn vị hành chính gồm: Các quận Hải Châu, Liên Chiểu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa; có diện tích 942,46 km2, với số dân 663.115 người(1). Thành phố Đà Nẵng chính thức trực thuộc Trung ương vào ngày 01 tháng 01 năm 1997. Theo đó, để tạo sự thông suốt về tư tưởng, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh, nhằm tạo tâm lý phấn khởi, làm rõ ý nghĩa mục đích của việc chia tách trong toàn Đảng bộ và nhân dân. Nghị quyết nêu rõ: “Xuất phát từ yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và quản lý nhà nước trong giai đoạn mới, Bộ Chính trị đã có chủ trương và Kỳ họp lần thứ 10 của Quốc hội (khóa IX) đã thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, được tách thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương: Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Việc chia tách (1) Đây là diện tích đất liền, kể cả diện tích của huyện đảo Hoàng Sa là 1283,4 km2. Trong quá trình thảo luận để Quốc hội ban hành Nghị quyết, lúc đầu quận Hải Châu được đề xuất là quận Sông Hàn, quận Liên Chiểu được đề xuất là quận Hải Vân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân có tính chất lịch sử, cuối cùng Nghị quyết thống nhất lấy tên là quận Hải Châu và quận Liên Chiểu. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) 231 tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển năng động của thành phố Đà Nẵng sớm vươn lên thành trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung, đồng thời khai thác được tiềm năng, thế mạnh và phát huy được nội lực của cả địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(1). Trong công tác tư tưởng, Tỉnh ủy yêu cầu: “Các cấp ủy, chính quyền, các ngành và đoàn thể cần làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền quán triệt làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ yêu cầu khách quan và những lợi ích của việc chia tách tỉnh theo chủ trương của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, cần làm rõ cơ sở khách quan, quy trình các bước công việc trong chọn lựa phương án phân định địa giới hành chính của thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam để cán bộ, đảng viên và nhân dân thông suốt. Trên cơ sở đó, tạo được sự nhất trí cao trong toàn Đảng bộ về chủ trương của Trung ương, nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy truyền thống của quê hương, thực hiện thắng lợi việc chia tách tỉnh. Đồng thời, nghiêm khắc phê phán những tư tưởng cục bộ địa phương, khắc phục tư tưởng ngại khó, giữ nghiêm kỷ luật chấp hành Nghị quyết trong đảng viên và cán bộ. Đồng thời cần đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy năng lực nội tại để giải quyết khó khăn, mặt khác cần ưu tiên những điều kiện thuận lợi cho tỉnh Quảng Nam. Trong công tác tổ chức và cán bộ, cần quán triệt tinh thần đổi mới và chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy Đảng, chính quyền và các đoàn thể gọn nhẹ, có hiệu quả và hiệu lực cao. Không nhất thiết tỉnh hiện nay có sở, ban, ngành nào thì thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam cũng phải có đủ các sở, ban, ngành đó. Việc bố trí lại cán bộ phải đảm bảo cơ cấu hợp lý, vừa đáp ứng được yêu cầu trước mắt (1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng. 232 BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG nhưng cũng vừa đảm bảo tính kế thừa, liên tục trong công tác cán bộ. Việc phân công, bố trí cán bộ phải đảm bảo sự cân đối về năng lực, trình độ, tuổi tác, sức khỏe, phải chọn được những hạt nhân nòng cốt. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo phải tuyệt đối phục tùng sự phân công và điều động của Đảng”(1). Trên cơ sở kiến nghị của Đảng bộ và nhân dân thành phố, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh” ngày 06 tháng 11 năm 1996; để hợp thức hóa về mặt hành chính, Chính phủ ra Nghị định số 7/1997/NĐ-CP, ngày 23 tháng 01 năm 1997 “Về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng”. Nghị định nêu rõ: + Thành lập quận Hải Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường: Hải Châu I, Hải Châu II, Thạch Thang, Thanh Bình, Thuận Phước, Bình Thuận, Hòa Thuận, Nam Dương, Phước Ninh, Bình Hiên, Hòa Cường, Khuê Trung (thuộc Khu vực I thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Hải Châu có 2.373 ha diện tích tự nhiên và 203.264 nhân khẩu, gồm 12 phường. Địa giới hành chính quận Hải Châu: Đông giáp quận Sơn Trà; Tây và Bắc giáp quận Thanh Khê; Nam giáp huyện Hòa Vang. + Thành lập quận Thanh Khê trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường: An Khê, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Tam Thuận, Chính Gián, Thạc Gián, Tân Chính, Vĩnh Trung (thuộc Khu vực II thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Thanh Khê có 928 ha diện tích tự nhiên và 146.241 nhân khẩu, gồm 8 phường. Địa giới hành chính quận Thanh Khê: Đông và Nam giáp quận Hải Châu; Tây giáp huyện Hòa Vang; Bắc giáp vịnh Đà Nẵng. + Thành lập quận Sơn Trà trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số các phường An Hải Tây, An Hải Bắc, An Hải Đông, Nại Hiên Đông, Mân Thái, Phước Mỹ, Thọ Quang (thuộc (1) Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng: “Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thực hiện chủ trương chia tách tỉnh”, tlđd. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) 233 Khu vực III, thành phố Đà Nẵng cũ). Quận Sơn Trà có 5.972 ha diện tích tự nhiên và 96.756 nhân khẩu, gồm 7 phường. Địa giới hành chính quận Sơn Trà: Đông và Bắc giáp biển Đông; Tây giáp quận Hải Châu; Nam giáp quận Ngũ Hành Sơn. + Thành lập quận Ngũ Hành Sơn trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của phường Bắc Mỹ An (thuộc Khu vực III, thành phố Đà Nẵng cũ) và hai xã Hòa Quý, Hòa Hải (thuộc huyện Hòa Vang cũ)(1). Quận Ngũ Hành Sơn có 3.672 ha diện tích tự nhiên và 32.533 nhân khẩu gồm 3 phường: Bắc Mỹ An, Hòa Quý và Hòa Hải. Địa giới hành chính quận Ngũ Hành Sơn: Đông giáp biển Đông; Tây giáp huyện Hòa Vang; Nam giáp tỉnh Quảng Nam; Bắc giáp quận Sơn Trà. + Thành lập quận Liên Chiểu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã Hòa Hiệp, Hòa Khánh, Hòa Minh (thuộc huyện Hòa Vang cũ)(2). Quận Liên Chiểu có 7.572 ha diện tích tự nhiên và 52.279 nhân khẩu, gồm 3 phường: Hòa Hiệp, Hòa Khánh và Hòa Minh. Địa giới hành chính quận Liên Chiểu: Đông giáp biển Đông; Tây giáp huyện Hòa Vang; Nam giáp quận huyện Hòa Vang; Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế. + Huyện Hòa Vang: Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Hòa Vang có 73.749 ha diện tích tự nhiên và 132.042 nhân khẩu, gồm 14 xã: Hòa Tiến, Hòa Sơn, Hòa Phát, Hòa Thọ, Hòa Châu, Hòa Phước, Hòa Liên, Hòa Xuân, Hòa Nhơn, Hòa Phong, Hòa Khương, Hòa Bắc, Hòa Ninh, Hòa Phú. Địa giới hành chính (1) Trong đó, thành lập phường Hòa Quý trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Quý gồm 1.351 ha và 8.793 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Hải trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Hải gồm 1.412 ha và 9.618 nhân khẩu. (2) Trong đó, thành lập phường Hòa Hiệp trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Hiệp gồm 5.015 ha và 20.565 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Khánh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Khánh gồm 1.840 ha và 21.844 nhân khẩu; thành lập phường Hòa Minh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Minh gồm 717 ha và 9.870 nhân khẩu. 234 BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG huyện Hòa Vang: Đông giáp quận Liên Chiểu, Thanh Khê, Hải Châu, Ngũ Hành Sơn; Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam; Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế. + Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thành phố, Đà Nẵng có 5 quận và 2 huyện: quận Hải Châu, quận Thanh Khê, quận Sơn Trà, quận Ngũ Hành Sơn, quận Liên Chiểu, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Như vậy, thành phố Đà Nẵng chính thức trực thuộc Trung ương vào ngày 01 tháng 01 năm 1997 theo Nghị quyết ngày 06 tháng 11 năm 1996 của Quốc hội “Về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”, đồng thời được Thủ tướng Chính phủ ban hành chính thức về quản lý hành chính bằng Nghị định số 7/1997/NĐ-CP, ngày 23 tháng 01 năm 1997 “Về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng”. Lúc mới trực thuộc Trung ương, thành phố Đà Nẵng gồm có 5 quận là: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn và 2 huyện là: Hòa Vang, Hoàng Sa. Việc Đà Nẵng tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương là một tất yếu khách quan trong lịch sử phát triển của đất nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Theo đó, Đảng bộ lâm thời Thành ủy Đà Nẵng được thành lập theo Quyết định (chỉ định) của Bộ Chính trị số 122-QĐNS/ TW, ngày 12 tháng 12 năm 1996 (khóa VIII). Lúc này, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm 31 đồng chí. Đồng chí Trương Quang Được - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, được Trung ương chỉ định làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng lâm thời, các đồng chí Phan Như Lâm(1), Nguyễn Bá Thanh(2) làm Phó Bí thư Thành uỷ. Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã nhanh (1) Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng, Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng (cũ). (2) Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (cũ). LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) 235 chóng đi vào hoạt động, tích cực chuẩn bị cho Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng vào cuối tháng 10 năm 1997. Tính đến cuối năm 1996, cả nước chỉ có ba thành phố trực thuộc Trung ương: Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hải Phòng. Đầu năm 1997, Đà Nẵng được tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng để trở thành thành phố thứ tư trực thuộc Trung ương. Trong lịch sử, Đà Nẵng từng trực thuộc Trung Kỳ/ Trung Bộ theo Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và “Đà Nẵng 3 quận” từng là một thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương ở Sài Gòn trong giai đoạn 1954-1975. Tuy nhiên, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong một đất nước độc lập, thống nhất, trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI) là bước chuyển mình đầy ấn tượng của Đà Nẵng trong tiến trình lịch sử. Từ khi thành phố kiến nghị được chia tách tỉnh (tháng 5 năm 1989) đến khi chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (ngày 01 tháng 01 năm 1997) cũng là khoảng thời gian Đảng bộ và nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung chuẩn bị cho mình một tâm thế cũng như những phương án chia tách tỉnh, chính vì vậy chỉ trong một thời gian rất ngắn đã nhanh chóng thống nhất được một phương án chia tách tối ưu trình Quốc hội xem xét, thông qua. Đây là một sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển của Đà Nẵng sau này. Thành phố Đà Nẵng mới, trực thuộc Trung ương có một số đặc thù về lịch sử, địa lý và trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động mà Đảng bộ thành phố đã xác định để có hướng quy hoạch, phát triển trong thời gian tới. Thứ nhất, tính đến cuối năm 1996, huyện Hòa Vang thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng là huyện được chia tách nhiều nhất để thành lập các quận mới và cho đến nay là huyện duy nhất chưa có thị trấn huyện lỵ. Một lần nữa, lịch sử lại giao phó cho 236 BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Hòa Vang sứ mệnh phải xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng quê hương tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với huyện đảo Hoàng Sa, chuyển từ trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng sang trực thuộc thành phố Đà Nẵng. Thời điểm này (1997) đã là 23 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, khiến Đà Nẵng trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh “duy nhất” trong cả nước còn nguyên một huyện bị ngoại bang xâm chiếm. Thứ hai, sau khi thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, so với các tỉnh, thành khác trong cả nước, thì chính quyền thành phố Đà Nẵng quản lý một quy mô dân số hết sức vừa phải: 663.115 nhân khẩu, với số đầu mối quận huyện, xã phường cũng rất gọn: 5 quận, 2 huyện và 33 phường, 14 xã. Chính đặc thù “hết sức vừa phải” và “rất gọn” này là tiền đề quan trọng để chính quyền Đà Nẵng có thể tập trung đẩy mạnh quy mô và tiến độ đô thị hóa - điều khó khả thi trong bối cảnh một thành phố trực thuộc tỉnh như trước năm 1997. Tuy nhiên, việc thành phố Đà Nẵng ít dân và có diện tích nhỏ hẹp cũng là một khó khăn, thử thách trong việc hướng đến xây dựng một thành phố lớn, là thành phố động lực của khu vực miền Trung như thị trường nhỏ hẹp, tài nguyên đất có hạn, quy mô nền kinh tế nhỏ Nhưng xét nhiều mặt thì thực trạng dân số Đà Nẵng thập niên vừa qua vẫn phải được xem là ưu thế, là lợi thế so sánh, nhất là trong việc xử lý những vấn nạn của đô thị như giải quyết việc làm, phát triển nghề nghiệp và định hướng sinh kế. Thứ ba, thời điểm thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương vào đầu năm 1997, rơi vào thời điểm khởi đầu thời kỳ suy giảm của nền kinh tế đất nước kéo dài đến hết thế kỷ XX: “Giai đoạn từ 1991 đến 1996, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng từ năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế châu Á năm 1997-1999, tốc độ tăng trưởng GDP giảm dần, năm 1999 chỉ còn 4,9% so với 9,5% năm 1996. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên nhưng chưa LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1975 – 2015) 237 cao và vững chắc”(1). Bởi vậy, ra riêng trong một cục diện kinh tế suy thoái như vậy, Đà Nẵng khó có thể bứt phá để nhanh chóng cải thiện điểm xuất phát thấp của mình ngay từ những năm đầu chia tách. Tuy nhiên, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực trực thuộc Trung ương đã mở ra thời kỳ mới, thành phố có nhiều điều kiện hơn trong việc phát huy các tiềm năng, thế mạnh vốn có để phát triển thành vùng động lực thúc đẩy khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Ngày 17 tháng 02 năm 1997, tại Đà Nẵng, Tỉnh ủy lâm thời Qu