1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu hành vi thích ứng (HVTƯ) trong lĩnh vực khuyết tật trí tuệ
(KTTT) có lịch sử rất dài và phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau như
văn học, triết học và y học. Hiệp hội Khuyết tật trí tuệ và phát triển của Mỹ (trước
đây là American Association on Mental Deficiency (AAMD) - Hiệp hội Thiếu hụt
Trí tuệ Hoa Kỳ, tiếp đó là Hiệp hội Chậm phát triển trí tuệ Hoa Kỳ - the American
Association on Mental Retardation (AAMR, nay là Hiệp hội Khuyết tật trí tuệ và
phát triển Hoa Kỳ - the American Association on Intellectual and Developmental
Disabilities (AAIDD) là nơi đầu tiên đưa HVTƯ vào khái niệm KTTT (năm 1959).
Năm 1961 Heber đã đưa ra khái niệm KTTT bao gồm cả yếu tố HVTƯ:
“KTTT là hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình kết hợp với khiếm khuyết về
HVTƯ và bắt đầu biểu hiện trong quá trình phát triển” [6]. Việc nhấn mạnh cả trí
tuệ và HVTƯ trong khái niệm KTTT là một thay đổi rất có ý nghĩa trong những
công trình nghiên cứu về KTTT. Nó làm thay đổi hẳn cách nhìn về KTTT của
những thập kỉ trước năm 1960, đó là quan niệm chỉ dựa vào trí tuệ để nghiên cứu
về KTTT. Với quan niệm mới này thì một đứa trẻ có trí tuệ thấp nhưng lại hoạt
động hiệu quả trong xã hội sẽ không bị coi là KTTT.
Xoay quanh thuật ngữ HVTƯ và lịch sử nghiên cứu về HVTƯ trong lĩnh vực
KTTT còn có rất nhiều quan niệm và giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau. Bài
viết này đề cập tới một số giai đoạn phát triển chính của HVTƯ trong lĩnh vực
KTTT trên thế giới và ở Việt nam.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lịch sử nghiên cứu hành vi thích ứng của trẻ khuyết tật trí tuệ trên thế giới và Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Science., 2010, Vol. 55, N◦. 5, pp. 105-111
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU HÀNH VI THÍCH ỨNG
CỦA TRẺ KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Trần Thị Lệ Thu
Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu hành vi thích ứng (HVTƯ) trong lĩnh vực khuyết tật trí tuệ
(KTTT) có lịch sử rất dài và phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau như
văn học, triết học và y học. Hiệp hội Khuyết tật trí tuệ và phát triển của Mỹ (trước
đây là American Association on Mental Deficiency (AAMD) - Hiệp hội Thiếu hụt
Trí tuệ Hoa Kỳ, tiếp đó là Hiệp hội Chậm phát triển trí tuệ Hoa Kỳ - the American
Association on Mental Retardation (AAMR, nay là Hiệp hội Khuyết tật trí tuệ và
phát triển Hoa Kỳ - the American Association on Intellectual and Developmental
Disabilities (AAIDD) là nơi đầu tiên đưa HVTƯ vào khái niệm KTTT (năm 1959).
Năm 1961 Heber đã đưa ra khái niệm KTTT bao gồm cả yếu tố HVTƯ:
“KTTT là hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình kết hợp với khiếm khuyết về
HVTƯ và bắt đầu biểu hiện trong quá trình phát triển” [6]. Việc nhấn mạnh cả trí
tuệ và HVTƯ trong khái niệm KTTT là một thay đổi rất có ý nghĩa trong những
công trình nghiên cứu về KTTT. Nó làm thay đổi hẳn cách nhìn về KTTT của
những thập kỉ trước năm 1960, đó là quan niệm chỉ dựa vào trí tuệ để nghiên cứu
về KTTT. Với quan niệm mới này thì một đứa trẻ có trí tuệ thấp nhưng lại hoạt
động hiệu quả trong xã hội sẽ không bị coi là KTTT.
Xoay quanh thuật ngữ HVTƯ và lịch sử nghiên cứu về HVTƯ trong lĩnh vực
KTTT còn có rất nhiều quan niệm và giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau. Bài
viết này đề cập tới một số giai đoạn phát triển chính của HVTƯ trong lĩnh vực
KTTT trên thế giới và ở Việt nam.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu hành vi thích ứng của trẻ khuyết tật trí
tuệ trên thế giới
2.1.1. Thời kì trước những năm 60 của thế kỉ XX
Ngay từ năm 1905, hai tác giả người Pháp là Alfred Binet và Theodore Simon
đã công bố trắc nghiệm trí tuệ để phân biệt trẻ bình thường học kém và trẻ học
105
Trần Thị Lệ Thu
kém do KTTT. Ngay sau đó, nhà tâm lí học Mỹ Lewis Terman (1877- 1956), giáo
sư trường Đại học Stanford (Mỹ) đã cải tiến trắc nghiệm Binet- Simon để dùng cho
trẻ em Mỹ, và nó được gọi là trắc nghiệm Stanford - Binet. Trắc nghiệm Stanford -
Binet là kiểu mẫu để phát triển nhiều trắc nghiệm trí tuệ sau này [3].
Cùng với sự xuất hiện của các trắc nghiệm trí tuệ, trong thời gian này bắt đầu
có nhiều nhà khoa học đã quá tin tưởng vào điểm số trí tuệ và hiểu sai về bản chất
của trí tuệ. Thực trạng này đã củng cố cho quan điểm coi KTTT là không thể cải
thiện được, đồng thời biện hộ cho cách chăm sóc người KTTT theo kiểu giam giữ
và quản thúc trong suốt nửa đầu thế kỉ XX. Việc chẩn đoán trí tuệ dựa vào điểm số
của một thành phần, gọi là trí tuệ đơn nhất/nguyên khối (monolithic intelligence)
cho thấy rõ quan niệm chưa đúng về trí tuệ. Trong thời gian này, cũng có một số ít
quan niệm cho rằng trí tuệ bao gồm nhiều yếu tố, như trong các tiểu test của trắc
nghiệm trí tuệ David Wechsler, song những yếu tố đa chiều lại không bộc lộ trong
điểm số trí tuệ tổng hợp. Trên thực tế, trắc nghiệm trí tuệ chỉ đơn thuần dùng để
phân loại các cá nhân là loại KTTT nhẹ, trung bình, hay nặng.
Việc hiểu sai về bản chất của trí tuệ đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới quan điểm
về KTTT, gây trở ngại nghiêm trọng tới sự thay đổi cần thiết đối với các phương
pháp và cách thức cải thiện tình trạng KTTT.
Việc coi HVTƯ là một trong những thành phần của hệ thống phân loại KTTT
đã giúp AAIDD có một định hướng đúng trong việc mở rộng phạm vi nghiên cứu
về KTTT.
Tháng 9 năm 1964, AAIDD cùng với bệnh viện và trung tâm đào tạo mục
sư đã nhận được khoản tài trợ của Viện Sức khoẻ Tâm thần Quốc gia để chứng
minh chức năng của HVTƯ đối với các vấn đề tâm thần, cũng như việc thiết lập
cách phân loại KTTT mới. Kết quả là năm 1968 dự án này (của các tác giả: Nihira,
Foster, Shellhaas và Lambert) đã xây dựng được các bảng kiểm tra HVTƯ cho trẻ
em và người lớn. Đây chính là nguồn gốc thang đo HVTƯ của AAIDD năm 1993.
Cách tiếp cận HVTƯ là cơ sở khuyến khích các nhà chuyên môn đánh giá cá
nhân không chỉ để phân loại hay đặt tên mà là để điều trị, để tìm cách cải thiện
tình trạng KTTT.
2.1.2. Những năm 60 của thế kỉ XX
Những năm 60 là thời kì có nhiều tác động quan trọng về mặt xã hội nhằm
thúc đẩy việc quay trở lại cách tiếp cận có HVTƯ trong vấn đề KTTT hay không?
Đây cũng là thập kỉ mà việc điều trị và cải thiện tình trạng KTTT cho các cá nhân
khuyết tật được nhiều quốc gia quan tâm.
Năm 1961 nhà xuất bản Viện Hàn lâm Khoa học Giáo dục Xô Viết đã xuất
bản cuốn Một số nguyên tắc chẩn đoán sự KTTT của trẻ em. Đây là công trình
nghiên cứu của một số nhà tâm - sinh lí học Xô Viết về vấn đề hội chứng tâm bệnh ở
106
Lịch sử nghiên cứu hành vi thích ứng của trẻ khuyết tật trí tuệ trên thế giới...
trẻ và những con đường chẩn đoán nó. Năm 1966 nhà xuất bản Giáo dục Mátxcơva
lại cho ra đời cuốn Tâm lí học hoạt động nhận thức của trẻ bình thường và trẻ có
tật. Đây cũng là một công trình nghiên cứu của các nhà tâm lí học Xô Viết về trẻ
em nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng. Mặc dù hai tác phẩm này không đề cập
trực tiếp tới vấn đề HVTƯ của trẻ KTTT, nhưng cũng đã ít nhiều nói tới việc đánh
giá và giáo dục các kĩ năng thích ứng cuộc sống cho các trẻ em chậm phát triển [1].
Tại Mĩ, sự thịnh vượng của nền kinh tế thời hậu chiến đã dấy lên làn sóng
muốn rằng chính phủ liên bang cùng chia sẻ trách nhiệm lớn hơn đối với những cá
nhân khuyết tật. Năm 1961, tổng thống Kennedy đã đề cử vị chủ tịch Hội KTTT
đầu tiên. Tháng 2 năm 1963, vị chủ tịch này đã đệ trình Quốc hội một chương trình
quốc gia nhằm giải quyết vấn đề KTTT. Kể từ đó có rất nhiều nguồn kinh phí được
tập trung để hỗ trợ trẻ KTTT. Từ khi AAIDD đưa khái niệm HVTƯ vào lĩnh vực
KTTT thì nhu cầu cần phải có các công cụ đánh giá HVTƯ ngày một tăng lên.
Trong thời gian này, khái niệm HVTƯ và việc đánh giá HVTƯ đã được chính phủ
Mĩ rất quan tâm, bởi vì nó trực tiếp hỗ trợ công việc phục hồi chức năng cho các
cá nhân KTTT.
Việc quan tâm đến HVTƯ và sử dụng các kết quả đánh giá HVTƯ trong
những năm 60 đã mang lại triển vọng và những mục tiêu có tính xã hội cho quá
trình nỗ lực can thiệp và điều trị tình trạng KTTT. Năm 1987, Horn và Fuchs đã
điểm lại lịch sử chung về HVTƯ đối với việc đánh giá và can thiệp. Hai tác giả đã
viết: “Chúng tôi tin tưởng rằng, với sự phát triển của lịch sử, khi xã hội thể hiện
mong muốn phát triển các chương trình điều trị cho người KTTT, thì đồng thời
nhu cầu sử dụng HVTƯ để xác định nội dung các chương trình can thiệp sẽ tăng
lên” [6].
2.1.3. Những năm 70 của thế kỉ XX
Tới những năm 70, có nhiều thay đổi trong việc nghiên cứu và hỗ trợ người
KTTT. Không chỉ tập trung trị bệnh và trị liệu cho người KTTT như trước đây,
các chuyên gia còn cố gắng cung cấp các dịch vụ tốt nhất nhằm đáp ứng lợi ích và
đảm bảo quyền lợi pháp lí cho người KTTT. Bình thường hoá và giáo dục cho trẻ
KTTT trong môi trường giáo dục phổ thông (giáo dục hội nhập) với các bạn cùng
tuổi là những nguyên tắc lí tưởng. Sử dụng HVTƯ và đánh giá HVTƯ là cơ sở cho
các nguyên tắc này. Bằng cách làm như vậy người KTTT sẽ có được những kĩ năng
cơ bản trong môi trường ít hạn chế nhất. Đồng thời, qua các công trình nghiên cứu
và kết quả đánh giá cụ thể, các nhà chuyên môn cũng xác định được những kĩ năng
cần phải có để người KTTT có thể hội nhập vào cộng đồng.
Cùng thời gian này tại Mĩ, các văn bản pháp luật về việc thực hiện bình
thường hoá và giáo dục trong môi trường giáo dục phổ thông của nhà nước liên
bang cũng được ban hành. Cụ thể như: Dự luật thượng nghị viện 33 của California,
ban hành năm 1971. Dự luật này tuyên bố rõ rằng: để xác định loại hình giáo dục
107
Trần Thị Lệ Thu
đặc biệt cho trẻ thì cùng với các đánh giá dựa trên trắc nghiệm trí tuệ đã chuẩn
hoá, trẻ em còn phải được đánh giá về HVTƯ, về lịch sử phát triển và về nguồn gốc
văn hoá. Một pháp chế tương tự cũng đã được ban hành ở Florida, Texas và Bắc
Carolina [4].
Nguyên tắc bình thường hoá, giáo dục trong môi trường giáo dục phổ thông
đã khiến nhu cầu cần phải có những đánh giá và luyện tập về HVTƯ (những hành vi
giúp trẻ có khả năng chuyển vào học hội nhập hay sống được trong các môi truờng
sống hàng ngày) ngày càng tăng lên.
Đánh giá về HVTƯ đã trở thành một phần quan trọng của tiến trình chẩn
đoán nhằm tránh phân loại sai lầm đối với những trẻ em KTTT có tiềm năng học
tập. Như vậy HVTƯ đã trở thành một nhân tố trong các cuộc tranh cãi giữa giáo
dục và pháp lí về trắc nghiệm trí tuệ, cũng như việc sử dụng kết quả của nó trong
môi trường giáo dục cộng đồng. Tại toà án Riles P.v.L. năm 1972 ở California việc
sử dụng trắc nghiệm trí tuệ để xác định trẻ KTTT có tiềm năng học tập đã bị cấm
hoàn toàn. Ở nhiều bang khác, luật pháp cũng nêu rõ rằng đánh giá HVTƯ phải là
một phần của tiến trình đánh giá đa chiều về tiềm năng học tập của trẻ KTTT.
Mặc dù dự định ban đầu chỉ là nêu ra khái niệm và cách đánh giá HVTƯ
nhằm hỗ trợ trị liệu và lập chương trình giáo dục cho người KTTT thay cho việc
chăm sóc kiểu trại giam, song trong quá trình này lại nảy sinh một định hướng mới
đó là việc sử dụng HVTƯ như một công cụ chẩn đoán tiềm năng trong quá trình
đánh giá và phân loại học sinh. Hai khuynh hướng rất khác nhau này đã tác động
sâu sắc đến sự phát triển của khái niệm và thang đo HVTƯ sau này.
2.1.4. Những năm 80 của thế kỉ XX đến nay
Vào cuối những năm 70, các cuộc tranh cãi về HVTƯ, trí tuệ và phân loại
học sinh không chỉ do tòa án phán xử mà người ta đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu
chúng.
Bước sang những năm 80, việc nghiên cứu sử dụng các công cụ đo HVTƯ để
nhận dạng đối tượng có vai trò rất quan trọng. Điều này được thể hiện rõ trong các
tài liệu chuyên môn. Số lượng các công cụ đánh giá HVTƯ tăng lên rất nhiều. Cũng
trong thời gian này, Mayers đã tổng kết được khoảng 136 bảng đánh giá và thang
đo HVTƯ. Các công cụ đo HVTƯ trở nên rất đa dạng, chúng dùng để đo cho những
độ tuổi khác nhau, mức khuyết tật khác nhau, trong những môi trường khác nhau
và với những mục đích đánh giá khác nhau.
Thập kỉ 80 là thập kỉ mà các công cụ đo HVTƯ tiếp tục là phương tiện nâng
cao hiệu quả phát triển các chương trình dạy học nhằm chuẩn bị cho từng trẻ có thể
sống trong môi trường ít hạn chế nhất; đồng thời cũng dùng để xây dựng chương
trình chuyển đổi môi trường cho các em.
Đánh giá HVTƯ tuy đã trở nên hữu ích song nhiều người cũng quan tâm và
108
Lịch sử nghiên cứu hành vi thích ứng của trẻ khuyết tật trí tuệ trên thế giới...
bình luận về những khiếm khuyết của nó. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thông tin
về HVTƯ còn mơ hồ và giá trị của nó đối với việc phân loại học sinh còn chưa chắc
chắn, đặc biệt là nó có nhiều hạn chế khi sử dụng tại trường học. Tác giả Zigler đã
đề xuất ý kiến rằng chỉ nên dùng kết quả chẩn đoán trí tuệ để chẩn đoán KTTT.
Trước những ý kiến đánh giá như vậy, nhiều nhà khoa học đã nỗ lực nghiên
cứu sâu bản chất, cấu trúc và sự phát triển của HVTƯ.
Thập kỉ của những năm 80 cũng là thời gian mà các nghiên cứu về yếu tố và
cấu trúc của HVTƯ diễn ra rất tích cực. Những nghiên cứu phân tích yếu tố của
HVTƯ dựa trên các nhóm mẫu khác nhau đã mang đến nhiều kết quả khác nhau
về bản chất và số lượng các yếu tố HVTƯ.
Sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu phân tích yếu tố HVTƯ trong những
năm 80 đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu xem xét những mức độ thứ bậc khác nhau
trong cấu trúc yếu tố của HVTƯ.
Một hướng nghiên cứu rất có ý nghĩa khác trong thời kì này cũng đã được tiến
hành, đó là tìm hiểu những giá trị biệt lập và hội tụ của các thang đo HVTƯ khác
nhau. Bản chất của đặc điểm chung, yếu tố chung thuộc các thang đo khác nhau
đã được tìm ra trong những nghiên cứu giá trị biệt lập và hội tụ. Như vậy, nhu cầu
đòi hỏi các nhà nghiên cứu lí luận và thực tiễn chỉ rõ, hoặc nêu rõ những thông tin
về sự tương đồng giữa các thang đo cũng như tính riêng biệt của từng thang đo đã
được đặt ra. Những thông tin này có vai trò giúp tổng kết và xây dựng các mô hình
chi tiết của HVTƯ.
Nghiên cứu về khuynh hướng phát triển của HVTƯ trong những năm 80 đã
cung cấp những thông tin quan trọng, giúp chúng ta hiểu bản chất của HVTƯ. Các
công trình nghiên cứu ở cả hai bình diện cắt ngang và cắt dọc về HVTƯ đều cho
thấy rõ rằng trẻ KTTT ở mức độ khác nhau có sự phát triển HVTƯ khác nhau.
Hơn thế nữa, những hướng phát triển khác nhau của các lĩnh vực HVTƯ cũng đã
được mô tả.
Cũng trong giai đoạn này, một số khái niệm liên quan đến HVTƯ đã được
phát triển và những tranh luận trong việc xác định khái niệm KTTT đã nẩy sinh.
Một số nhà nghiên cứu có chủ trương mở rộng khái niệm trí tuệ bằng cách đưa cả
trí tuệ thực hành (diễn ra hàng ngày) vào trong khái niệm KTTT. Sự trở lại của
yếu tố trí tuệ xã hội trong các cuộc tranh luận đã đánh dấu việc quay lại định nghĩa
của nhà nghiên cứu Doll về suy giảm trí tuệ - theo ông suy giảm trí tuệ chính là
thiếu khả năng biểu đạt trong xã hội [5].
2.2. Lịch sử nghiên cứu HVTƯ của trẻ KTTT ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 60 chính phủ đã quan tâm đến vấn đề giáo
dục và nghiên cứu về trẻ khuyết tật, chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu
về trẻ KTTT, mức độ HVTƯ và công tác giáo dục các trẻ em này.
109
Trần Thị Lệ Thu
Năm 1966, nhà nước ta đã ban hành thông tư 202/CP về chính sách đối với
người già, trẻ mồ côi và trẻ khuyết tật. Năm 1975 Bộ Y tế đã ra quyết định 91/BYT
về việc thành lập khoa Tâm thần thuộc bệnh viện Bạch Mai, với nhiệm vụ điều tra
cơ bản về số trẻ KTTT phối hợp với việc thăm khám và chữa bệnh. Kể từ khi có
những quyết định này việc chăm sóc và dạy các kĩ năng cuộc sống cho trẻ KTTT
đã được quan tâm.
Năm 1995 tác giả Trần Trọng Thuỷ có công trình nghiên cứu về vấn đề trẻ
học kém và phương pháp dạy học chỉnh trị. Cùng thời gian này công trình nghiên
cứu về đặc điểm tâm sinh lí của trẻ KTTT do tác giả Nguyễn Cảnh Thìn thực hiện
cũng được công bố. Trong các công trình nghiên cứu này tình trạng hạn chế về nhận
thức và các kĩ năng thích ứng của trẻ KTTT cũng đã được nói tới.
Bác sĩ Phạm Văn Đoàn (1993) trong cuốn Trẻ chậm khôn đã chuyển dịch
thuật ngữ HVTƯ (nguyên gốc tiếng Anh là “Adaptive behavior”) từ cuốn Sổ tay
chẩn đoán những rối nhiễu tâm thần III (DSM III). Trong cuốn sách này, ông đã
phân tích tầm quan trọng phải nghiên cứu và đưa HVTƯ vào công tác giáo dục,
chăm sóc trẻ KTTT. Trên cơ sở phân tích của bác sĩ, trường Tiểu học Bình Minh
đã bắt đầu tập trung rèn luyện HVTƯ cho các học sinh KTTT [2].
Trong đề tài cấp Bộ Xây dựng nội dung, chương trình dạy trẻ KTTT của
trường Tiểu học Bình Minh, các tác giả Nguyễn Thị Thảo, Phạm Văn Đoàn cũng
đã đưa các nhóm lĩnh vực HVTƯ vào chương trình giảng dạy trẻ KTTT, cụ thể
như: các kĩ năng tự phục vụ, các kĩ năng học đường chức năng, v.v.
Nhiều công trình nghiên cứu và sách đã xuất bản của Viện Khoa học giáo dục,
nay là Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cũng đã lần lượt khẳng định sự cần thiết
và tầm quan trọng của HVTƯ đối với công tác chẩn đoán và giáo dục trẻ KTTT.
Cụ thể như các công trình nghiên cứu: Giáo dục trẻ có tật tại gia đình (1993), Hỏi
- đáp về giáo dục trẻ khuyết tật (1993), Giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật ở Việt
Nam (1995), Tiến tới giáo dục hoà nhập - kinh nghiệm ở Việt Nam (1998), Dạy học
hoà nhập cho trẻ khuyết tật (2000), Giáo dục hoà nhập và cộng đồng (2001).
Tuy nhiên, cho đến nay có thể thấy rằng, ở Việt Nam chưa có công trình
nghiên cứu nào đi sâu và đề cập một cách trực tiếp, cụ thể tới vấn đề HVTƯ của
trẻ KTTT.
3. Kết luận
Như vậy trong những năm 60, thế giới đã rất quan tâm đến vấn đề HVTƯ
bởi vì ngày càng có nhiều người chú ý đến việc chăm sóc cho các cá nhân KTTT.
Trong những năm 70, việc đánh giá HVTƯ đã trở thành một phần của các cuộc
tranh luận về trí tuệ, về phân loại giáo dục, và về khái niệm KTTT. Những tranh
cãi này đã dẫn đến kết quả là nhiều công cụ đo HVTƯ ra đời. Từ những năm 80
đến nay HVTƯ là yếu tố rất cần thiết cho việc định nghĩa, chẩn đoán, giáo dục và
110
Lịch sử nghiên cứu hành vi thích ứng của trẻ khuyết tật trí tuệ trên thế giới...
điều trị trẻ em KTTT. Những năm 80 là thời kì tiến triển đáng kể trong việc nghiên
cứu HVTƯ. Nghiên cứu dựa trên cơ sở phân tích yếu tố, phân tích biệt lập và hội
tụ chính là những nỗ lực nhằm củng cố các thang đo HVTƯ và tìm kiếm lí thuyết
cấu trúc thống nhất của HVTƯ. Các nghiên cứu về tiến trình phát triển của HVTƯ
đã mở rộng tầm hiểu biết của chúng ta về bản chất của các lĩnh vực HVTƯ trong
mối liên quan với sự phát triển của con người. Những nghiên cứu như vậy đã giúp
chúng ta xác định yêu cầu đặc thù của quá trình đánh giá, đánh giá chức năng và
phát triển chương trình giáo dục ở những độ tuổi và mức KTTT khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trịnh Đức Duy (chủ biên), 1992. Sổ tay Giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt
Nam. Nxb Sự thật.
[2] Phạm Văn Đoàn, 1993. Trẻ chậm khôn. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3] Trần Thị Lệ Thu, 2003. Đại cương giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát
triển trí tuệ. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[4] Lambert N., Nihira K., Leland H., 1993. Adaptive Behavior Scale School,
2nd edition. Examiner’s manual, American Association on Mental Retardation.
[5] Luckasson R.: Mental Retardation, 1992. Definition, classification, and
Systems of Supports American association on Mental Retardation. Washington DC.
[6] Schalock R. L., 1999. Adaptive Behavior and Its Measurements: Implica-
tions for the Field of Mental Retardation. American Association on Mental Retar-
dation. Washington DC.
ABSTRACT
History of adaptive behavior research
of intellectually disabled children around the world and in Vietnam
It is crucial and important to study adaptive behavior in order to improve the
effect of care and education for intellectually disabled children. This article aims
to collect and analyze different stages of adaptive behavior research from all over
the world and in Vietnam. This article also confirms that the studies of adaptive
behavior has assisted us to define the specific requirements of assessment processes,
functional evaluation and educational curriculum development for intellectually dis-
abled children at different ages.
111