Hòa nhập với xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công, các đơn vị sự nghiệp ở Việt nam không còn
đơn thuần thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao mà còn tự tổ chức cung ứng dịch vụ
cho xã hội. Nguồn tài chính của các đơn vị này không chỉ do ngân sách nhà nước cấp mà
từng đơn vị đều khai thác thêm các nguồn thu từ hoạt động dịch vụ cho xã hội. Trong những
năm gần đây, số thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ không chỉ là nguồn thu bổ sung mà còn
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn kinh phí của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều đơn vị sự
nghiệp vẫn còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Gần đây, Chính phủ đã
ra Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16.1.2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp
có thu, trong đó đã quy định tạm thời quy chế quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp theo
hướng tự chủ, nhưng trên thực tế việc triển khai Nghị định này còn gặp không ít khó khăn.
Thông tấn xã Việt nam (TTXVN), với tư cách là một đơn vị sự nghiệp, cũng nằm
trong tình trạng như thế. Mặc dù trong những năm vừa qua, công tác quản lý tài chính của
TTXVN đã đạt được một số kết quả nhất định, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra, song
cơ chế quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN hiện cũng bộc lộ những hạn
chế, khiếm khuyết. Để góp phần làm cho công tác quản lý tài chính của TTXVN ngày càng
tốt hơn, phù hợp hơn với tiến trình đổi mới của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế thế
giới và khu vực, đề tài: “Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông
tấn xã Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
96 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 3150 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa nhập với xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công, các đơn vị sự nghiệp ở Việt nam không còn
đơn thuần thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao mà còn tự tổ chức cung ứng dịch vụ
cho xã hội. Nguồn tài chính của các đơn vị này không chỉ do ngân sách nhà nước cấp mà
từng đơn vị đều khai thác thêm các nguồn thu từ hoạt động dịch vụ cho xã hội. Trong những
năm gần đây, số thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ không chỉ là nguồn thu bổ sung mà còn
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn kinh phí của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều đơn vị sự
nghiệp vẫn còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Gần đây, Chính phủ đã
ra Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16.1.2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp
có thu, trong đó đã quy định tạm thời quy chế quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp theo
hướng tự chủ, nhưng trên thực tế việc triển khai Nghị định này còn gặp không ít khó khăn.
Thông tấn xã Việt nam (TTXVN), với tư cách là một đơn vị sự nghiệp, cũng nằm
trong tình trạng như thế. Mặc dù trong những năm vừa qua, công tác quản lý tài chính của
TTXVN đã đạt được một số kết quả nhất định, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra, song
cơ chế quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN hiện cũng bộc lộ những hạn
chế, khiếm khuyết. Để góp phần làm cho công tác quản lý tài chính của TTXVN ngày càng
tốt hơn, phù hợp hơn với tiến trình đổi mới của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế thế
giới và khu vực, đề tài: “Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông
tấn xã Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuyển các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước sang hoạt động theo cơ chế quản lý phù
hợp với kinh tế thị trường là lĩnh vực vấp phải nhiều lúng túng ở nước ta. Mặc dù từ đầu
những năm 90 Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương xã hội hóa một phần các dịch vụ công
của Nhà nước, nhưng quá trình xã hội hóa diễn ra chậm chạp. Gần đây, với việc ban hành
Nghị định số10/ 2002/CP Nhà nước ta đã thể hiện quyết tâm đổi mới trong quản lý các đơn
vị hành chính, sự nghiệp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này còn rất ít,
mới chỉ có một số công trình đề cập đến ba góc độ sau:
* Bàn về chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công của nhà nước. Điển hình cho các
công trình nghiên cứu này là:
+ Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ đối với các ĐVSN (Huỳnh Thị Nhân, Tạp chí tài
chính số 1 năm 2005)
+ Mở rộng quyền chủ động tài chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách (Vĩnh Sang,
Tạp chí Tài chính số 8 năm 2005)
+ Cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu, (
caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004)
+ Cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính thu (
caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004).
*Quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp đã được
thực hiện trong một số năm gần đây. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này
còn ít, mới chỉ có một số bài phân tích, bình luận trên tạp chí, một số luận văn, luận án
nghiên cứu về quản lý tài chính. Chẳng hạn như:
+ Thủ trưởng đơn vị được quyền tự chủ về kinh phí quản lý hành chính (Báo Đầu Tư
ra ngày 20/03/2006)
+ Một số vấn đề về đổi mới lĩnh vực sự nghiệp (Đỗ Quốc Sam, http://
WWW.irv.moi.gov.vn, ngày 2/03/2006).
+ Trao quyền tự chủ rộng hơn cho đơn vị sự nghiệp (Phỏng vấn ông Huỳnh Quang
Hải, Vụ trưởng Vụ hành chính sự nghiệp, Bộ Tài chính, ngày
09/03/2006)
+ Hội thảo “ Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005” Bộ Tài chính phối hợp với
Dự án VIE 01/024/B-Bộ Nội vụ tổ chức với các Bộ ngành Trung ương và các địa phương
(
+ Mỗi năm chuyển khoảng 20% - 25% số đơn vị sự nghiệp sang tự chủ tài chính
(Xuân Quang,
Các công trình này chủ yếu bình luận về tính đúng đắn của chủ trương xã hội hóa
trên các mặt tăng quy mô và chủng loại dịch vụ, nhất là dịch vụ y tế và giáo dục, tăng ý thức
trách nhiệm của công dân và các đơn vị trong cung cấp, lựa chọn, kiểm soát và trả phí theo
chất lượng dịch vụ, tăng tính cạnh tranh và sức ép buộc các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước
phải cải thiện hoạt động của mình.. . Một số công trình cũng phân tích những yếu kém khi
triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa dịch vụ công.
*Bàn về thực trạng đổi mới cơ chế quản lý, nhất là đổi mới cơ chế quản lý tài chính,
ở các đơn vị sự nghiệp của nhà nước theo hướng mở rộng quyền tự chủ tài chính cho cơ sở.
Có thể kể ra một số công trình đã công bố về lĩnh vực này như:
- Luận văn thạc sĩ của Hoàng Ngọc Tuấn về đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quá trình quản lý tài chính tại Trung tâm dịch vụ báo chí Hà Nội”.
- Luận án tiến sỹ của Đặng Minh Hiền về đề tài: “ Một số giải pháp quản lý tài chính
ở các Bệnh viện công Việt Nam”.
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thu Thảo về đề tài: “ Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài
chính đối với ĐVSN có thu tại Viện khoa học Thủy Lợi”.
Trong khuôn khổ quản lý tài chính của TTXVN, cũng đã có một số công trình nghiên
cứu nhưng mang tính kỹ thuật và báo chí. Riêng nghiên cứu về đổi mới quản lý tài chính ở
các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN. Vì TTXVN là một đơn vị sự nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước,
trong nó lại bao gồm nhiều đơn vị trực thuộc, nên đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN bao hàm nhiều nội dung phức tạp như đổi mới quản lý tài chính của
Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với TTXVN, đổi mới quản lý tài chính của Văn phòng
TTXVN đối với đơn vị trực thuộc và đổi mới quản lý tài chính của từng đơn vị trực thuộc
TTXVN … Do khuôn khổ hạn chế nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quản lý tài chính
của Văn phòng TTXVN và của đơn vị trực thuộc. Cơ chế, chế độ quản lý tài chính của Nhà
nước đối với TTXVN được giới hạn trong các văn bản có giá trị thi hành hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ khảo sát các đơn vị trong nước của TTXVN,
không đề cập đến quản lý tài chính các đại diện ở nước ngoài. Thời gian khảo sát chủ yếu
tập trung trong giai đoạn 5 năm trước và sau năm 2006.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý tài chính ở các
đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đổi mới quản lý tài
chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc
TTXVN.
- Phân tích thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN.
- Đề xuất giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN
trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến như phương pháp
phân tích, tổng hợp dựa trên các số liệu thống kê có sẵn và tự điều tra, kết hợp với so sánh,
hệ thống hóa, mô hình hóa nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần thiết.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
- Đưa ra được bức tranh về thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc
TTXVN trên cơ sở chế độ quản lý của Nhà nước hiện hành.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý
tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
1.1. Một số khái niệm liên quan đến quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
1.1.1. Hoạt động sự nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động sự nghiệp
Trong xã hội, con người tạo ra và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau như sản
xuất ra của cải để nuôi sống mình, tự nhận thức thế giới và giáo dục cho thế hệ sau những tri
thức và kỹ năng mình đã tích lũy được, nghiên cứu và tìm cách chữa bệnh cho mình, rèn
luyện thể lực và giải trí…Các Mác, và sau này là các học trò và người kế tục Người, đã
quan niệm xã hội gồm nhiều tầng cấu trúc, trong đó quá trình tạo ra của cải vật chất là cơ sở
hạ tầng, bên trên nó là kiến trúc thượng tầng chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, tinh
thần…Khi xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực, các lý luận gia của các nước xã
hội chủ nghĩa đã coi các hoạt động sản xuất là hoạt động kinh tế, các hoạt động của bộ máy
nhà nước là hành chính và các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, y tế, văn hóa, nghệ thuật là
hoạt động sự nghiệp. Hơn nữa, trong mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, ngoài
các cơ sở sản xuất và thương mại quốc doanh bao trùm quá trình tái sản xuất xã hội, Nhà
nước còn thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, nghiên cứu…Để phân biệt
chức năng và cơ chế hoạt động của các loại hình đơn vị cơ sở như thế, Nhà nước gọi các
hoạt động sản xuất và thương mại là hoạt động kinh tế, các hoạt động nghiên cứu, giáo dục,
y tế, thể dục thể thao, nghệ thuật… là các hoạt động sự nghiệp. Từ đó cho đến nay thuật ngữ
hoạt động sự nghiệp được sử dụng thường xuyên trong các văn bản pháp lý về quản lý của
Nhà nước. Tuy nhiên, về mặt lý luận, chưa có công trình nào đưa ra định nghĩa về hoạt động
sự nghiệp.
Theo chúng tôi, hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do Nhà nước thực hiện
nhằm cung cấp những dịch vụ có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động
sự nghiệp không trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó
tác động đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ
năng lao động cho nhân dân, cải thiện chất lượng sống của con người, duy trì, bảo tồn và
phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học… Kết
quả hoạt động sự nghiệp ảnh hưởng đến không chỉ phát triển kinh tế mà còn đến sự phát
triển xã hội và đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại hàng hóa, dịch vụ có
tính chất của hàng hóa công cộng hoặc hàng hóa khuyến dụng.
Kết quả của hoạt động sự nghiệp chủ yếu là học vấn, kỹ năng lao động của nhân dân,
các giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật khó đánh giá được giá trị kinh tế bằng tiền, nhưng
có ý nghĩa tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung, tăng năng lực sản xuất của quốc gia, tăng
chất lượng sống của nhân dân, tăng phúc lợi xã hội, tạo hiệu ứng tích cực cho các lĩnh vực
khác, lợi ích đem lại không chỉ cho người hưởng thụ trực tiếp mà còn cho những người khác
…. Nhiều sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp có giá trị sử dụng tăng thêm khi tăng người sử
dụng mà không tăng chi phí như phát thanh, truyền hình… Theo ý kiến của nhà kinh tế
được giải thưởng Nôben J. Stieglits, nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng sẽ có lợi hơn tư
nhân [14, tr.170-173].
Hơn nữa, trong xã hội hiện đại, để đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, Nhà nước
nên cung cấp nhiều hàng hóa công cộng. Bởi vì, nhờ sử dụng những hàng hóa công cộng do
hoạt động sự nghiệp tạo ra mà quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và ngày
càng đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao
đem đến tri thức và bảo đảm sức khỏe cho lực lượng lao động, tạo điều kiện cho lao
động có chất lượng ngày càng tốt hơn; hoạt động sự nghiệp khoa học, văn hóa thông tin
mang lại những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội, tạo ra những công nghệ mới
phục vụ sản xuất và đời sống... Nếu không có sự cung cấp của Nhà nước, nhiều người
không có cơ hội hưởng thụ những loại hàng hóa, dịch vụ đó.
Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường, một số sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra
có thể trở thành hàng hóa đem lại thu nhập cho đơn vị cung cấp. Song do nhiều nguyên
nhân, chẳng hạn như nếu trao đổi theo nguyên tắc thị trường thì nhiều người không có khả
năng tiêu dùng hoặc không khuyến khích tiêu dùng đủ mức…, trong khi đó mở rộng tối đa
sự tiêu dùng các loại hàng hóa đó có ý nghĩa vừa làm tăng năng lực sản xuất của đất nước,
vừa có giá trị tiến bộ và công bằng. Chính vì thế, Nhà nước cần tổ chức cung ứng hoặc duy
trì các tài trợ để các hoạt động sự nghiệp cung cấp những sản phẩm, dịch vụ không thu tiền
hoặc thu tiền chỉ để hoàn một phần chi phí, không nhằm thu lợi nhuận. Ngoài ra, khi cung
cấp các dịch vụ sự nghiệp không theo nguyên tắc thương mại bình thường, Nhà nước hướng
đến mục tiêu phân phối lại thu nhập và tăng phúc lợi công cộng.
Tuy nhiên, xét về mặt quản lý vi mô, Nhà nước mong muốn các đơn vị cung cấp
hàng hóa, dịch vụ sự nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, có nghĩa là hoạt động với chi phí
tối thiểu. Do đó, các biện pháp khoán kinh phí hay buộc các đơn vị sự nghiệp phải hạch toán
thu chi không phải là giải pháp tăng thu lợi nhuận như các biện pháp quản lý doanh nghiệp,
mà đơn thuần chỉ là giải pháp quản lý khuyến khích đơn vị sự nghiệp chủ động phát huy hết
mọi năng lực của mình để tiết kiệm chi phí.
Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát
triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước.
Trong kinh tế thị trường, các hoạt động sự nghiệp cũng là công cụ để Nhà nước thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhất là các chương trình chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, chương trình phát triển giáo dục,
chương trình phát triển văn hóa... Những chương trình mục tiêu quốc gia chi phối hoạt động
sự nghiệp nằm trong tổng thể chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Hơn nữa, nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp của xã hội thì nhiều vô hạn,
trong khi đó nguồn tài chính của Nhà nước giành cho các hoạt động này lại bị hạn chế bởi
ngân sách nhà nước cũng như mối quan hệ với các nhu cầu chi tiêu khác của Nhà nước.
Chính vì thế, cung sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp luôn thấp hơn nhu cầu và việc xác định phải
cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp với quy mô bao nhiêu luôn là vấn đề hóc búa
của các Nhà nước.
Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi chung và lâu dài.
Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá trị về tri thức,
văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội... Đây là những sản phẩm thường
mang lại lợi ích cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên phạm vi rộng. Nhiều sản phẩm sự
nghiệp có tác dụng lâu dài như các phát minh khoa học, các giá trị văn hóa, trình độ học vấn, kỹ
năng lao động…
Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm do hoạt động sự nghiệp tạo ra là sản phẩm có
tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh vực nhất định, những sản
phẩm đó khi tiêu dùng thường có tác dụng lan toả và vựcđược sử dụng đi, sử dụng lại nhiều
lần.
1.1.1.3. Phân loại hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú và có thể phân loại chúng
theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, các hoạt động sự nghiệp được chia thành:
+ Sự nghiệp kinh tế: Là hoạt động sự nghiệp nhằm phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp
cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho các ngành kinh tế hoạt động bình thường,
thuận lợi.
+ Sự nghiệp văn hóa xã hội (gọi tắt là sự nghiệp văn xã): Là các hoạt động phục vụ
cho các yêu cầu phát triển của xã hội về văn hóa, sức khỏe và các nhu cầu về đời sống tinh
thần của nhân dân.
- Căn cứ vào đặc điểm nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động sự nghiệp, hoạt động
sự nghiệp được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp không có thu: Là hoạt động do Nhà nước đảm bảo hoàn toàn
nhu cầu tài chính. Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ
thiết yếu cho xã hội, phạm vi tiêu dùng rộng rãi và chỉ có Nhà nước mới có thể thực hiện
một cách hiệu quả nhất. Thuộc về những hoạt động này gồm có các hoạt động về văn hóa
tuyên truyền, giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế cho người nghèo, đảm bảo xã hội,...
+ Hoạt động sự nghiệp có thu: Là những hoạt động mà nguồn tài chính đảm bảo vừa
do Nhà nước cung cấp, vừa do người tiêu dùng đóng góp một phần dưới dạng phí, lệ phí.
Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ có tác động trực tiếp
đến quá trình sản xuất và đời sống mà người tiêu dùng có thể trả tiền do họ thấy ngay hiệu
quả sử dụng dịch vụ, hoặc là họ muốn nhận được những dịch vụ có phí phân biệt theo chất
lượng.
- Căn cứ vào tính chất hoạt động của chúng, hoạt động sự nghiệp được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp thường xuyên: Là những hoạt động được tổ chức và duy trì
hoạt động liên tục và xã hội luôn luôn có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dịch vụ của nó, bất
luận điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn như thế nào. Thuộc về hoạt động sự
nghiệp thường xuyên là các hoạt động về giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế, văn hóa
…
+ Hoạt động sự nghiệp không thường xuyên: Là những hoạt động sự nghiệp để thực
hiện các chương trình cụ thể của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định.
1.1.1.4. Vai trò của hoạt động sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Trong thời đại ngày nay, một nước giầu hay nghèo, lạc hậu hay phát triển không phải
chỉ phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa tư nhân mà người dân có được do trao đổi trên thị
trường, mà còn phụ thuộc vào khối lượng phúc lợi xã hội mà họ được hưởng, trong đó có
các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp cung cấp. Hơn nữa, tiềm năng phát triển
nhanh hay chậm trong tương lai của một nước không những do số lượng lao động, tài
nguyên thiên nhiên và vốn đã tích lũy được quyết định, mà chủ yếu là do khả năng phát huy
tiềm năng sáng tạo của con người chi phối. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố
cấu thành con người về trình độ văn hóa, tri thức khoa học, thể lực, tâm hồn, đạo đức lối
sống, thị hiếu, thẩm mỹ, giao tiếp của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng… Đa phần yếu tố
cấu thành tiềm năng sáng tạo của con người do hoạt động sự nghiệp cung cấp trong quá
khứ, hiện tại và tương lai.
Hoạt động sự nghiệp là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn và phát triển văn hóa,
truyền thống, các giá trị đạo đức… Nghị quyết Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ X đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [13].
Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới, phát triển giáo dục -
đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương
2 (khóa VIII) của Đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ cùng với giáo dục -
đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước.
Thể dục - thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển khoa học xã
hội của Đảng và Nhà nước ta nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, góp phần tích
cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhânnhân cách, đạo đức lối sống lành mạnh, làm
phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và
sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) của
Đảng ta đã khẳng định “Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân
tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [11]. Hoạt động sự nghiệp có
vai trò quan trọng trong lĩn