Một trong những thách thức lớn mà ngày nay Chính phủ các nước đang phát
triển phải đối mặt là việc cải cách hành chính, đổi mới phương thức lónh đạo và
quản lý như thế nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ mỏy nhà nước,
phù hợp với yêu cầu của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới và sự bùng nổ của
cách mạng thông tin. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, ứng dụng CNTT vào
trong hoạt động của CQNN, xây dựng CPĐT chính là giải pháp chiến lược cho
Chính phủ các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, con đường xây dựng CPĐT không phải là đơn giản. Theo James
Yong, Giám đốc các chương trỡnh khu vực cụng (Đông Nam Á) của Cisco System,
đó cú đến 35% CPĐT trên toàn thế giới bị thất bại hoàn toàn, 50% thất bại một
phần. Nguyên nhân chủ yếu là do sự trỡ trệ của người dân, công chức và áp dụng
rập khuôn mô hỡnh cỏc nước khác [6]. Con đường xây dựng CPĐT không thể nóng
vội, phải có phương pháp, mô hỡnh và cỏc bước triển khai thích hợp.
Ở Việt Nam, Đề án tin học hóa quản lý hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001
– 2005 (gọi tắt là Đề án 112) đó được triển khai theo Quyết định 112/2001/QĐ-TTg
ngày 25/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Đề án 112 đó được coi là nền tảng cho
tiến trỡnh xõy dựng CPĐT ở VN. Nhưng “Đề án 112 đó không thực hiện được mục
tiêu, nhiệm vụ tin học hóa quản lý hành chớnh nhà nước được Thủ tướng Chính phủ
giao” (theo kết luận của Thủ tướng, ngày 20/4/2007). [1] Hàng tỉ đồng đó được đầu
tư cho thiết bị và công nghệ ở 27 tỉnh, thành và 12 bộ ngành nhưng vẫn chưa được
khai thác hiệu quả.
Thực tế đó cho thấy, ứng dụng công nghệ vào hoạt động của CQNN như thế
nào cho hiệu quả vẫn là một bài toán khó. Bởi lẽ, việc ứng dụng công nghệ thông
tin không chỉ dừng lại ở việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng hạ tầng kỹ thuật mà
cũn đũi hỏi nhiều ở những định hướng mang tính chiến lược, có tầm vóc quốc tế;
các yêu cầu về trỡnh độ của nguồn nhân lực và cả hoạt động quản lý hành chớnh
của CQNN cùng với các chính sách và thể chế thích hợp. Nếu định hướng không
đúng, triển khai không tốt thỡ việc đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của CQNN sẽ khụng hiệu quả và gõy lóng phớ rất lớn. Những thất bại
của Đề án 112 là một minh chứng cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
không đồng bộ, nặng về trang thiết bị, kế hoạch triển khai không rừ ràng, ớt tham
khảo ý kiến người dùng và tính định hướng chưa cao, ….
Cần triển khai tin học hóa theo hướng mới, thiết thực, hiệu quả hơn, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đó nhấn mạnh: Tin học húa quản lý hành chớnh nhà nước
phải được tiếp tục triển khai mạnh mẽ, nhưng thực hiện theo đúng Nghị định số
64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của CQNN [1]. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này (2008), kế hoạch
triển khai ứng dụng CNTT cho giai đoạn tiếp theo vẫn chưa có. Vỡ vậy, đa số các
bộ, ngành và các tỉnh, thành đang rất lúng túng, thụ động và có xu hướng trông chờ
vào các văn bản hướng dẫn. Có thể nói, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của
CQNN đang bị chậm lại.
Trước tỡnh hỡnh chung, việc ứng dụng CNTT trong quản lý chớnh quyền tỉnh
An Giang - là tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, thuộc đồng bằng sông Cửu Long - cũng bị
những ảnh hưởng tương tự. Mặc dù, chính quyền tỉnh An Giang cũng đó và đang
triển khai những kế hoạch, chương trỡnh ứng dụng CNTT riêng cho tỉnh nhưng
nhỡn chung vẫn cũn chậm và chưa có sự đột phá.
Nhận thức rừ những vấn đề trên, là một cán bộ quản lý trong lĩnh vực cụng
nghệ thụng tin của Trường Đại học An Giang, đơn vị được coi là đi đầu trong việc
ứng dụng CNTT trong tỉnh An Giang và bản thân được đào tạo trong lĩnh vực quản
lý nhà nước, tác giả chọn đề tài “Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An Giang” làm luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành Quản lý kinh tế.
126 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2304 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý của chính quyền
tỉnh An Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những thách thức lớn mà ngày nay Chính phủ các nước đang phát
triển phải đối mặt là việc cải cách hành chính, đổi mới phương thức lónh đạo và
quản lý như thế nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ mỏy nhà nước,
phù hợp với yêu cầu của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới và sự bùng nổ của
cách mạng thông tin. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, ứng dụng CNTT vào
trong hoạt động của CQNN, xây dựng CPĐT chính là giải pháp chiến lược cho
Chính phủ các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, con đường xây dựng CPĐT không phải là đơn giản. Theo James
Yong, Giám đốc các chương trỡnh khu vực cụng (Đông Nam Á) của Cisco System,
đó cú đến 35% CPĐT trên toàn thế giới bị thất bại hoàn toàn, 50% thất bại một
phần. Nguyên nhân chủ yếu là do sự trỡ trệ của người dân, công chức và áp dụng
rập khuôn mô hỡnh cỏc nước khác [6]. Con đường xây dựng CPĐT không thể nóng
vội, phải có phương pháp, mô hỡnh và cỏc bước triển khai thích hợp.
Ở Việt Nam, Đề án tin học hóa quản lý hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001
– 2005 (gọi tắt là Đề án 112) đó được triển khai theo Quyết định 112/2001/QĐ-TTg
ngày 25/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Đề án 112 đó được coi là nền tảng cho
tiến trỡnh xõy dựng CPĐT ở VN. Nhưng “Đề án 112 đó không thực hiện được mục
tiêu, nhiệm vụ tin học hóa quản lý hành chớnh nhà nước được Thủ tướng Chính phủ
giao” (theo kết luận của Thủ tướng, ngày 20/4/2007). [1] Hàng tỉ đồng đó được đầu
tư cho thiết bị và công nghệ ở 27 tỉnh, thành và 12 bộ ngành nhưng vẫn chưa được
khai thác hiệu quả.
Thực tế đó cho thấy, ứng dụng công nghệ vào hoạt động của CQNN như thế
nào cho hiệu quả vẫn là một bài toán khó. Bởi lẽ, việc ứng dụng công nghệ thông
tin không chỉ dừng lại ở việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng hạ tầng kỹ thuật mà
cũn đũi hỏi nhiều ở những định hướng mang tính chiến lược, có tầm vóc quốc tế;
các yêu cầu về trỡnh độ của nguồn nhân lực và cả hoạt động quản lý hành chớnh
của CQNN cùng với các chính sách và thể chế thích hợp. Nếu định hướng không
đúng, triển khai không tốt thỡ việc đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của CQNN sẽ khụng hiệu quả và gõy lóng phớ rất lớn. Những thất bại
của Đề án 112 là một minh chứng cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
không đồng bộ, nặng về trang thiết bị, kế hoạch triển khai không rừ ràng, ớt tham
khảo ý kiến người dùng và tính định hướng chưa cao, ….
Cần triển khai tin học hóa theo hướng mới, thiết thực, hiệu quả hơn, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đó nhấn mạnh: Tin học húa quản lý hành chớnh nhà nước
phải được tiếp tục triển khai mạnh mẽ, nhưng thực hiện theo đúng Nghị định số
64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của CQNN [1]. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này (2008), kế hoạch
triển khai ứng dụng CNTT cho giai đoạn tiếp theo vẫn chưa có. Vỡ vậy, đa số các
bộ, ngành và các tỉnh, thành đang rất lúng túng, thụ động và có xu hướng trông chờ
vào các văn bản hướng dẫn. Có thể nói, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của
CQNN đang bị chậm lại.
Trước tỡnh hỡnh chung, việc ứng dụng CNTT trong quản lý chớnh quyền tỉnh
An Giang - là tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, thuộc đồng bằng sông Cửu Long - cũng bị
những ảnh hưởng tương tự. Mặc dù, chính quyền tỉnh An Giang cũng đó và đang
triển khai những kế hoạch, chương trỡnh ứng dụng CNTT riêng cho tỉnh nhưng
nhỡn chung vẫn cũn chậm và chưa có sự đột phá.
Nhận thức rừ những vấn đề trên, là một cán bộ quản lý trong lĩnh vực cụng
nghệ thụng tin của Trường Đại học An Giang, đơn vị được coi là đi đầu trong việc
ứng dụng CNTT trong tỉnh An Giang và bản thân được đào tạo trong lĩnh vực quản
lý nhà nước, tác giả chọn đề tài “Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An Giang” làm luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành Quản lý kinh tế.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vai trũ của CNTT ngày càng được nâng cao và
chiếm vị trí quan trọng trong mọi lĩnh vực, ngành nghề nên vấn đề ứng dụng CNTT
trong quản lý của nhà nước được đặc biệt quan tâm. Các cơ quan Đảng, Nhà nước
cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố thuộc Trung ương đều có những chương
trỡnh ứng dụng CNTT riờng cho mỡnh.
Điển hỡnh một số tài liệu, đề tài nghiên cứu, các đề án lớn có liên quan đến
việc ứng dụng CNTT trong quản lý của CQNN từ năm 2001 đến nay như:
- Đặng Hữu (2001), Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị Quốc gia.
- Đổi mới công tác thông tin phục vụ quản lý kinh tế của Chính phủ trong
giai đoạn hiện nay (2001), Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý của Nguyễn Văn
Hũa, Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chớ Minh
- Ứng dụng cụng nghệ thụng tin phục vụ phỏt triển kinh tế - xó hội tỉnh
Vĩnh Phỳc – Thực trạng và giải pháp (2006), Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản
lý của Nguyễn Bá Hiến, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005 (Đề
án 112).
- Đề án tin học hóa hoạt động các cơ quan Đảng giai đoạn 2001-2005 (Đề
án 47), Đề án tin học hóa hoạt động các cơ quan Đảng giai đoạn 2006-2010 (Đề án
06).
- Emmanuel C. Lallana (2003), Kỷ nguyên thông tin, UNDP-APDIP.
- Patricia J. Pascual (2003), Chính phủ điện tử, UNDP-APDIP.
Nhỡn chung, hầu hết cỏc cụng trỡnh nghiên cứu trên chỉ khái quát những vấn
đề chung hoặc đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc ứng dụng công nghệ
thông tin; Chỉ có Đề án 112 là có liên quan trực tiếp đến việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, đề án này đó khụng đạt được hiệu
quả như mong muốn.
Trong quỏ trỡnh nghiờn cứu, tỏc giả sẽ kế thừa cú chọn lọc một số ý tưởng
trong các công trỡnh nghiờn cứu cú liờn quan, kết hợp với việc phõn tớch thực
trạng của việc ứng dụng cụng nghệ thụng tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An
Giang để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn là tỡm hiểu hiện trạng ứng dụng cụng nghệ thụng
tin trong quản lý của chớnh quyền tỉnh An Giang. Qua đó, đề tài sẽ đề xuất những
giải pháp khắc phục và mang tính chiến lược nhằm đảm bảo việc ứng dụng công
nghệ thông tin có hiệu quả hơn.
- Nhiệm vụ của luận văn:
o+ Tỡm hiểu cỏc vấn đề có liên quan đến việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động quản lý chớnh quyền của tỉnh An Giang
nói riêng và Chính phủ điện tử nói chung.
o+ Phân tích, đánh giá thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý chính quyền của tỉnh An Giang.
o+ Đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược nhằm khắc phục các
hạn chế và đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong quản lý chớnh
quyền của tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào con người, các chính
sách, các chương trỡnh ứng dụng có liên quan đến ứng dụng CNTT trong quản lý
chớnh quyền của chính quyền tỉnh An Giang.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu việc ứng dụng
CNTT trong khối các cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền tỉnh An Giang (bỏ
Formatted: Bullets and Numbering
qua khối Hội đồng nhân dân) và một số giải pháp, chính sách có liên quan. Thời gian
nghiên cứu đánh giá của luận văn từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mỏc-
Lờnin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước và kế thừa có chọn lọc các công trỡnh nghiờn cứu. Cụ thể, luận
văn sẽ căn cứ vào:
o+ Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ năm
của Ban chấp Trung ương khóa X, về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ mỏy nhà nước.
o+ Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của CQNN.
o+ Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Bộ Bưu chính -
Viễn thông.
o+ Kế hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội 5 năm, 2006 - 2010 của tỉnh An
Giang được ban hành theo Quyết định số 1958/QĐ-UBND, ban
hành ngày 02/10/2006.
o+ Tài liệu về Chính phủ điện tử của UNDP – APDIP.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu theo các phương pháp:
khảo sát, thống kê, so sánh, phân tính, tổng hợp, diễn giải, thực nghiệm, …. và kế thừa
kết quả của một số nghiên cứu khác để làm rừ cỏc vấn đề của luận văn nhằm đảm bảo
các giải pháp đề ra đạt được hiệu quả như mong muốn.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn phân tích và làm rừ thực trạng của việc ứng dụng cụng nghệ thụng
tin trong quản lý của chớnh quyền tỉnh An Giang. Từ đó, đề ra các giải pháp khắc
Formatted: Bullets and Numbering
phục và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của chính quyền tỉnh
An Giang được hiệu quả hơn.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, làm cơ sở cho các cơ quan, địa
phương trên định bàn tỉnh An Giang triển khai ứng dụng công nghệ thông tin có
hiệu quả; Luận văn cũn giỳp cho cỏc cơ quan nghiên cứu hoạch định chiến lược
phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN TRONG QUẢN Lí CỦA NHÀ NƯỚC
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀI VAI TRề CỦA CễNG NGHỆ
THễNG TIN
1.1.1. Khái niệm về công nghệ thông tin
CNTT (Information Technology) được hỡnh thành từ Khoa học mỏy tớnh
(Computer Science). Đây là một khái niệm khá rộng, nó bao hàm bên trong nhiều
khái niệm khác nhau. Ta có thể chia sự hỡnh thành khỏi niệm CNTT thành 3 giai
đoạn phát triển:
- Giai đoạn 1 (1943-1980): Từ khi máy tính điện tử đầu tiên ra đời cho đến
trước khi máy tính cá nhân (Personal Computer - PC) xuất hiện. Giai đoạn này,
ngành Khoa học máy tính có đối tượng nghiên cứu là máy tính điện tử, cỏc ngụn
ngữ lập trỡnh và cỏc thuật toỏn xử lý; Nhiệm vụ chỉ tập trung vào giải quyết các
vấn đề mang tính “toán học”.
- Giai đoạn 2 (1981-1989): Đây là giai đoạn máy tính cá nhân có giao diện
đồ họa xuất hiện và được phổ biến trong xó hội. Cùng với sự phát triển của các
ngành khoa học kỹ thuật khác, máy tính khả năng lưu trữ và xử lý của mỏy tớnh
ngày càng tăng. Đặc biệt, sự phát triển của mạng máy tính và kỹ thuật số đó bước
đầu xóa bỏ rào cản “không gian” giữa các máy tính, đưa Khoa học máy tính lên một
tầm cao mới. Một bộ phận của Khoa học máy tính đó phát triển thành Tin học
(Informatics), với đối tượng nghiên cứu là thông tin và sử dụng công cụ chủ yếu là
máy tính điện tử. Nhiệm vụ của Tin học lúc này là nghiên cứu việc lưu trữ và xử lý
thông tin một cách tự động.
- Giai đoạn 3 (cuối năm 1989 đến nay): Sự phát triển của các công nghệ về
máy tính, mạng máy tính và các phần mềm ứng dụng đó đạt đến đỉnh cao. Cựng với
sự hỡnh thành và phỏt triển của hệ thống mạng máy tính dùng chung cho toàn thế
giới (Internet), khả năng ứng dụng của máy tính và mạng máy tính đó gần như
không có giới hạn. Chúng đó trở thành phương tiện, công cụ không thể thiếu của
các hệ thống thông tin, hệ thống tổ chức. CNTT đó ra đời với tư cách là một ngành
khoa học ứng dụng hiện đại.
Việc chia các giai đoạn trên chỉ mang tính tương đối. Bởi lẽ, quỏ trỡnh phát
triển từ Khoa học máy tính lên Tin học, rồi thành CNTT là một quỏ trỡnh phỏt triển
khỏ phức tạp, liờn quan trực tiếp đến sự phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực khác
nhau.
Cho đến nay, vẫn cũn nhiều tranh cói về mối quan hệ giữa Khoa học mỏy
tớnh, Tin học và CNTT. Vỡ vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về CNTT. Một số
khái niệm CNTT phổ biến hiện nay như:
- Theo UNESCO, CNTT bao gồm việc sử dụng các ứng dụng máy tính,
công nghệ viễn thông và tin học trong việc truy cập và cung cấp thông tin riêng và
chung. Nó cho phép mọi người giao tiếp và trao đổi thông tin giới hạn trong không
gian số (cyberspace), làm việc tại văn phũng ảo và thiết lập một xó hội tri thức. [47,
tr.34]
- Theo Hiệp hội CNTT của Mỹ (ITAA), CNTT là việc nghiên cứu, thiết kế,
phát triển, triển khai thực hiện, hỗ trợ hoặc quản lý cỏc hệ thống thông tin điện tử,
chủ yếu là các phần mềm máy tính và phần cứng máy tính. CNTT bao hàm việc sử
dụng các máy tính điện tử và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử
lý, truyền và nhận nhận thụng tin an toàn. [48, tr.30]
- Theo GS. Phan Đỡnh Diệu, CNTT là ngành cụng nghệ về xử lý thụng
tin bằng cỏc phương tiện điện tử, trong đó nội dung xử lý thụng tin bao gồm cỏc
khõu cơ bản như thu thập, lưu trữ, chế biến và truyền nhận thông tin. [15, tr.17]
- Theo Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị, CNTT là thuật ngữ dùng để chỉ
các ngành khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá trỡnh xứ 1ý
thụng tin. Theo quan niệm này thỡ CNTT là hệ thống cỏc phương pháp khoa học,
công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy tính, mạng truyền
thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xó hội,
văn hoá... của con người. [9]
- Theo Luật CNTT (2007), CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học,
công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu
trữ và trao đổi thông tin số. [34, tr.2]
Nhỡn chung, cỏc quan điểm cũn lại cũng đều đồng ý rằng CNTT là ngành
nghiên cứu, sản xuất phần mềm và phần cứng máy tính, đồng thời cũng là ngành
khoa học và cụng nghệ về thụng tin và xử lý thụng tin, sử dụng cụng cụ, phương
tiện chủ yếu là máy tính điện tử. Riêng khái niệm về CNTT của Luật CNTT cần sử
dụng thuật ngữ “thông tin” thay cho “thông tin số”. Bởi lẽ, thông tin số là chỉ là một
dạng biểu diễn thông tin được xử lý và lưu trữ bằng các phương pháp số, hay cũn
được gọi là dữ liệu (data). Trong khi, một quy trỡnh xử lý thụng tin của CNTT bao
gồm: đầu vào là thông tin, xử lý thụng tin (số) và đầu ra là thông tin hoặc tri thức.
Có thể nói khái niệm về CNTT của Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị đưa ra
là hoàn chỉnh nhất và phù hợp với mục đích nghiên cứu của Luận văn. Vỡ vậy,
thuật ngữ CNTT trong Luận văn sẽ được hiểu theo quan điểm này. Điểm cần lưu ý
là CNTT bao gồm cả Ngành công nghệ, công nghiệp CNTT và việc ứng dụng
CNTT (thường gắn liền với một hệ thống tổ chức hay hệ thống thông tin nào đó).
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn sẽ tập trung vào nội dung của ứng dụng
CNTT trong hoạt động của CQNN.
1.1.2. Đặc điểm của công nghệ thông tin
- CNTT là ngành công nghệ mũi nhọn
Công nghệ mũi nhọn ở đây được hiểu là cái chóp của một kim tự tháp, có
nghĩa là nó là ngành công nghệ được xây dựng trên thành quả của nhiều công nghệ
khác và của những lý thuyết khoa học hiện đại. Do vậy, muốn xây muốn xây dựng
và phát triển một công nghệ mũi nhọn hoàn chỉnh phải phát triển từng bước và phải
lựa chọn thế đứng riêng của mỡnh. Mặt khác, đặc điểm của công nghệ mũi nhọn là
luôn luôn nặng về tri thức, đó cũng là đặc điểm của CNTT. Vỡ vậy, để phát triển
CNTT luôn cần nguồn nhân lực có trỡnh độ cao.
- CNTT là ngành có tốc độ phát triển và phổ biến nhanh nhất
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, chưa có ngành khoa học, công nghệ
nào có tốc độ phát triển và phổ biến nhanh như CNTT. Cú thể hỡnh dung sự phát
triển của CNTT qua định luật Moore, biểu tượng năng lực và sự phát triển của
CNTT. Theo định luật Moore, khả năng tính toán của một bộ vi xử lý điện tử cứ sau
18 tháng lại tăng lên gấp đôi, trong khi giá cố định (hoặc thấp hơn). Điều này là cơ
sở để giải thích cho việc thay đổi nhanh chóng trong ngành công nghiệp máy tính.
Hiện nay, định luật này đó được sửa lại là với thời gian là 24 tháng và hóng Intel
vẫn đang tiếp tục duy trỡ định luật này [49]. Theo dự đoán của các chuyên gia định
luật Moore vẫn cũn đúng trong 1-2 thập kỉ nữa.
Thật vậy, kể từ khi máy tính cá nhân đầu tiên xuất hiện (1980) đến nay đó cú
hơn 1 tỉ máy tính đang được sử dụng trên toàn thế giới (Mỹ, châu Âu, và Nhật
chiếm 58%). Dự đoán số lượng này sẽ cũn nhõn đôi trong 6 năm nữa nhờ tốc độ
tăng trưởng hàng năm đạt 12% do nhu cầu ngày một cao của người dùng tại các
nước đang phát triển; Đến năm 2014, 70% trong số 1 tỉ PC tiếp theo sẽ thuộc về các
quốc gia có thu nhập thấp, nguyên nhân chủ yếu là do giá giảm và khả năng kết nối
Internet mở rộng. Đồng thời, trong năm 2008 sẽ có khoảng 180 triệu, tức 16% máy
tính bị đào thải. Trong số này, khoảng 35 triệu máy sẽ trở thành rác thải không qua
xử lý chất độc hại. [27]
Một nghiên cứu khác của hóng IDG dự báo gần 1/4 dân số thế giới - khoảng
1,4 tỉ người - sẽ sử dụng Internet thường xuyên trong năm 2008. Con số này trong
năm 2012 được dự đoán là 1,9 tỉ, tương đương với 30% dân số thế giới. [19]
Theo Steve Ballmer, Giám đốc điều hành của Microsotf, trong 28 năm qua
(1980-2008), ngành công nghiệp IT đó trải qua cả thảy 4 cuộc cỏch mạng. Đầu tiên
là sự xuất hiện của PC bỡnh dõn, kế đến là sự phát triển của giao diện người dùng
đồ họa, sự nổi lên của Internet và cuối cùng là Web 2.0. Với tốc độ đó, trung bỡnh
cứ 7 năm thế giới lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới của CNTT. Ballmer dự
đoán, sắp tới, chúng ta sẽ chứng kiến cuộc cách mạng thứ 5 của CNTT. Ba lĩnh vực
mà cuộc cách mạng IT lần thứ 5 sẽ biểu thị tác động rừ nhất là: tương tác xó hội,
cỏc vấn đề xó hội toàn cầu và cỏ nhân hóa. [12; Error! Reference source not
found.]
Dưới sự phát triển như vũ bóo của CNTT, công nghệ cứ thay đổi liên tục. Vỡ
vậy, đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, cần lưu ý khi lựa chọn các
giải pháp về công nghệ. Nếu không, việc đầu tư hay định hướng sai công nghệ sẽ ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả đầu từ và gây lóng phớ lớn.
- CNTT là ngành khoa học có thể ứng dụng cho mọi lĩnh vực
Giới hạn của những công nghệ khác thường là không có khả năng kết hợp
nhiều loại thông tin, phương tiện với nhau. Ví dụ như với điện thoại chỉ có thể gởi
và nhận âm thanh, vô tuyến truyền hỡnh thỡ chỉ cú nhận hỡnh ảnh, õm thanh nhưng
không thể phản hồi, tương tác. Với khả năng số hóa thông tin, xử lý và tái tạo thông
tin, CNTT trở thành công cụ, phương tiện cho các công nghệ khác. CNTT có thể
tham gia trực tiếp vào trong quỏ trỡnh sản xuất của cỏc lĩnh vực như: công nghiệp,
nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, hoặc tham gia vào hoạt động quản lý, điều
hành của cỏc hệ thống thụng tin, hệ thống lónh đạo, … CNTT cũn tạo ra nhiều
ngành nghề kinh tế mới, làm thay đổi sâu sắc các ngành công nghiệp hiện tại, tăng
khả năng cạnh tranh của các ngành nghề thông qua hệ thống thương mại điện tử,
dịch vụ truyền thông đa phương tiện.
Ngày nay, CNTT vẫn đang tiếp tục phát triển và phổ biến ở mọi nơi, mọi
lĩnh vực, góp phần thúc đẩy nhanh quá trỡnh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thay đổi cơ cấu xó hội, phong cỏch sống, học tập và làm việc của con
người. [8, tr.28]
- CNTT là một công nghệ có nhiều tầng lớp [40, tr.53]
Trong CNTT, nếu tính từ người sử dụng (người dùng đầu cuối) đến khâu sản
xuất các thiết bị, vi mạch, .... ta sẽ thấy bên trong có nhiều tầng lớp và lớp trên được
xây dựng dựa trên các lớp phía dưới, chúng có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về
công nghệ. Càng lên cao, số lượng công nghệ có xu hướng càng tăng, sự phát triển
của công nghệ của lớp này cũng thúc đẩy sự phát triển các công nghệ tương ứng ở
lớp khác và ngược lại.
Có thể chia CNTT thành năm tầng lớp theo sơ đồ sau:
Hỡnh 1.1: Sơ đồ về sự phân tầng của CNTT
(i) Lớp ứng dụng tích hợp, đây là lớp trên cùng gồm các ứng dụng được phát
triển riêng cho từng cơ quan, xí nghiệp nào đó. Các ứng dụng này do đơ