Trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để
đạt đựơc vị trí thuận lợi trong sự phân công lao động quốc tế và trao đổi
thương mại quốc tế. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phải phát triển
mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Đối với nước ta phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan
nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định
hướng XHCN. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta vẫn đang trong
qúa trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chỉ có
thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại chúng ta mới tạo đựơc nguồn ngoại tệ
cần thiết để phục vụ nhập khẩu kỹ thuật hiện đại, công nghệ thiết bị, đồng
thời phát huy tiềm năng của đất nước, tận dụng nguồn vốn và công nghệ nước
ngoài để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, rút
ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước từng bước hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới.
Như một mắt xích không thể thiếu được trong hoạt động kinh tế đối
ngoại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng có vị trí và
vai trò quan trong, nó được xem là công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế
đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới.
Hoạt động thanh toán quốc tế là một trong những mặt hoạt động quan
trọng của Ngân hàng, nó có liên quan đến nhiều mặt hoạt động khác của Ngân
hàng.
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm mới tham gia hoạt động thanh toán
nhưng đã đạt được một số thành quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động thanh
toán quốc tế của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm với quy mô nhỏ và còn
gặp nhiều khó khăn. Việc tìm ra giải pháp để phát triển là hết sức cần thiết và
cấp bách, nó không những tạo điều kiện cho phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần vào việc thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng và Nhà nước mà còn là một tất yếu quan trọng quyết định sự
tồn tại và phát triển của Ngân hàng trong cơ chế thị trường, giúp cho Ngân
hàng công thương Hoàn Kiếm sớm hội nhập với hệ thồng Ngân hàng trong
nước và thế giới.
Thanh toán quốc tế thực sự là phức tập và còn nhiều tồn tại trong cơ chế
nghiệp vụ cũng như trong công tác tổ chức và thực hiện. Chính vì vậy, chúng
ta cần phải quan tâm nghiên cứu, tìm ra biện pháp khắc phục. Xuất phát từ
những vấn đề trên, em đã nghiên cứu đề tài:
“ Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân
hàng công thương Hoàn Kiếm”.
Bố cục của chuyên đề gồm có ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế của Ngân hàng
thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân
hàng công thương Hoàn Kiếm.
Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
73 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 2158 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và một số giải
pháp phát triển hoạt động
thanh toán quốc tế tại Chi
nhánh NHCT Hoàn Kiếm
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để
đạt đựơc vị trí thuận lợi trong sự phân công lao động quốc tế và trao đổi
thương mại quốc tế. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phải phát triển
mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Đối với nước ta phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan
nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định
hướng XHCN. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta vẫn đang trong
qúa trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chỉ có
thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại chúng ta mới tạo đựơc nguồn ngoại tệ
cần thiết để phục vụ nhập khẩu kỹ thuật hiện đại, công nghệ thiết bị, đồng
thời phát huy tiềm năng của đất nước, tận dụng nguồn vốn và công nghệ nước
ngoài để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, rút
ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước từng bước hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới.
Như một mắt xích không thể thiếu được trong hoạt động kinh tế đối
ngoại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng có vị trí và
vai trò quan trong, nó được xem là công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế
đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới.
Hoạt động thanh toán quốc tế là một trong những mặt hoạt động quan
trọng của Ngân hàng, nó có liên quan đến nhiều mặt hoạt động khác của Ngân
hàng.
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm mới tham gia hoạt động thanh toán
nhưng đã đạt được một số thành quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động thanh
toán quốc tế của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm với quy mô nhỏ và còn
gặp nhiều khó khăn. Việc tìm ra giải pháp để phát triển là hết sức cần thiết và
cấp bách, nó không những tạo điều kiện cho phục vụ hoạt động xuất nhập
2
khẩu, hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần vào việc thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng và Nhà nước mà còn là một tất yếu quan trọng quyết định sự
tồn tại và phát triển của Ngân hàng trong cơ chế thị trường, giúp cho Ngân
hàng công thương Hoàn Kiếm sớm hội nhập với hệ thồng Ngân hàng trong
nước và thế giới.
Thanh toán quốc tế thực sự là phức tập và còn nhiều tồn tại trong cơ chế
nghiệp vụ cũng như trong công tác tổ chức và thực hiện. Chính vì vậy, chúng
ta cần phải quan tâm nghiên cứu, tìm ra biện pháp khắc phục. Xuất phát từ
những vấn đề trên, em đã nghiên cứu đề tài:
“ Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân
hàng công thương Hoàn Kiếm”.
Bố cục của chuyên đề gồm có ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế của Ngân hàng
thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân
hàng công thương Hoàn Kiếm.
Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
Do còn có những hạn chế về kiến thức chuyên môn và thời gian thực tập
nên đề tài không thể không có những hạn chế thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự giúp đỡ của thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Hà Nội tháng 9 năm 2003
Sinh viên
Hoàng Đức Vinh.
3
4
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I- Sự cần thiết của hoạt động thanh toán quốc tế qua Ngân hàng.
1. Khái niệm về thanh toán quốc tế.
“ Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghiệp vụ và yêu cầu về tiền tệ,
phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ
chức tài chính quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các quốc gia khác nhau
để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các
hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại Ngân hàng”.
2. Sự cần thiết của thanh toán quốc tế qua Ngân hàng thương mại.
Khi đề cập đến hoạt động ngoại thương là đề cập đến quan hệ buôn bán
trao đổi hàng hoá giữa các nước. Về cơ bản thanh toán quốc tế phát sinh dựa
trên cơ sở hoạt động ngoại thương. Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng của
một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy, nếu công tác thanh toán
quốc tế được tổ chức tốt thì giá trị của hàng hoá xuất khẩu mới được thực
hiện, góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển. Thanh toán quốc tế trở thành
một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại.
Nhưng trong hoạt động mua bán luôn gắn liền với lợi ích của các bên
tham gia. Công tác thanh toán trong nội địa từng nước đã khó khăn phức tạp
nhưng thanh toán quốc tế càng khó khăn phức tạp hơn nhiều (các bên tham
gia hợp đồng khác nhau ở nhiều lĩnh vực: Chế độ chính trị, kinh tế, xã hội,
…). Trong mối quan hệ này mỗi bên tham gia ngoài việc chấp hành luật pháp
trong nước còn phải tuân thủ các hiệp định, hiệp ước cũng như các tập quán
thương mại khác.
5
Trong mua bán quyền lợi của các bên tham gia thường mâu thuẫn với
nhau, bên nào cũng muốn dành về mình phần thuận lợi hơn. Để giải quyết
mâu thuẫn này cần có sự tham gia của Ngân hàng, lúc này Ngân hàng đóng
vai trò trung gian, tạo sự tin tưởng, thuận lợi cho cả hai bên.
Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại hiện đại đã góp phần
thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế giữa các nước diễn ra nhanh chóng,
thuận lợi chính xác và đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia thanh
toán quốc tế. Ngân hàng là một tổ chúc trung gian tài chính, có bề dày kinh
nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đồng thời Ngân hàng có
mạng lưới và quan hệ đại lý với các Ngân hàng khác rất rộng. Ngoài ra, Ngân
hàng là tổ chức tiếp cận và ứng dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến bậc nhất
nên có thể sử dụng vào các hoạt dộng thanh toán một cách nhanh chóng,
chính xác. Chính những điều trên mà hầu hết mọi hoạt động thanh toán quốc
tế đều diễn ra cần có sự tham gia của các Ngân hàng.
3.Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng.
- Đối với nền kinh tế mà đặc biệt là đối với hoạt động kinh tế đối ngoại:
Thanh toán quốc tế có vị trí quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế
đối ngoại nói chung và trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt kinh tế đối ngoại lên vị trí
hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến
lược phát triển kinh tế của mình.
Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi
hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau.
Nếu không có hoạt động thanh toán quốc tế thì không có hoạt động kinh tế
đối ngoại.
Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia quan hệ kinh
tế đối ngoại. Khi thiết lập mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại
6
với các nước thì điều kiện quan trọng không thể thiếu đựơc là phải thiết lập
quan hệ thanh toán quốc tế.
Thanh toan quốc tế thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, nếu
việc tổ chức thanh toán quốc tế được tiến hành nhanh chóng, an toàn chính
xác sẽ làm cho các nhà sản xuất kinh doanh sẽ yên tâm và đẩy mạnh hoạt
động xuất nhập khẩu của mình, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại
phát triển, đặc biệt là hoạt động ngoại thương.
Thanh toán quốc tế hạn chế rủi ro trong qúa trình thực hiện hợp đồng
kinh tế đối ngoại: Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của bạn
hàng cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng
thanh toán của người mua, của con nợ, đồng thời trong điều kiện tiền tệ
thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của con nợ là rất bấp bênh, hơn
nữa trong cơ chế thị trường tình trạng lừa đảo ngày càng nhiều vì vậy rủi
trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại ngày càng lớn. Nếu tổ chức
tốt hoạt động thanh toán quốc tế sẽ giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập
khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhờ đó thúc đẩy
hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
- Đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng: Việc hoàn thiện để phát
triển hoạt động thanh toán quốc tế có một ý nghĩa hết sức thiết thực, hoạt
động thanh toán quốc tế là một dịch vụ thuần tuý làm tăng khả năng cạnh
tranh của Ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác của Ngân
hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng thu hút thêm nhiều
khách hàng, trên cơ sở đó Ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình,
giúp cho Ngân hàng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó tạo
được niền tin cho khách hàng và nâng cao uy tín của mình. Từ đó mà có thể
khai thác được nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng nước ngoài về nguồn vốn
trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
7
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng phát triển được
nghiệp vụ bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ và các dịch vụ khác. Nếu hoạt động
thanh toán quốc tế được đẩy mạnh thì sẽ đẩy mạnh được hoạt động tín dụng
tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm
thời quản lý được nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh
toán quốc tế qua Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng tăng thu nhập và tăng
cường khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời
nó giúp cho hoạt động Ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập
với hệ thống Ngân hàng thế giới.
II- Các phương thức thanh toán quốc tế.
Phương thức chuyển tiền.
“ Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng
(người trả tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định
cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương
thức chuyển tiền do khách hàng yêu cầu”.
Phương thức này có thể mô tả khái quát theo sơ đồ sau:
(1) (3)
(2)
Người chuyển
tiền
Người nhận chuyển
tiền
Ngân hàng nước nhận
chuyển tiền
Ngân hàng nước
người chuyển tiền
8
(1). Người chuyển tiền yêu cầu Ngân hàng nước mình chuyển một số
tiền nhất định cho người được hưởng ở nước ngoài.
(2). Ngân hàng phục vụ người chuyển tiền nhận thực hiện yêu cầu của
người chuyển tiền, làm thủ tục chuyển tiền ra nứơc ngoài.
(3). Ngân hàng nước ngoài nhận đựơc chuyển tiền sau khi đã nhận tiền
chuyển đến, thực hiện trả tiền cho người nhận.
Thanh toán chuyển tiền bao gồm các loại:
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer – T/T).
Chuyển tiền bằng điện tốc độ nhanh, nhưng chi phí cao. Ngày nay khi
tham gia mạng SWITF thì hầu hết chuyển tiền được thực hiện trên mạng
SWITF.
- Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T).
Chuyển tiền bằng thư chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện, song tốc
độ lại chậm hơn. Chuyển tiền bằng điện thì người chuyển tiền không bị động
vốn lâu ngày, nhưng tỷ giá ngoại tệ áp dụng trong điện hối cao hơn tỷ giá
ngoại tệ trong thư hối.
Chuyển tiền là một phương thức thanh toán trực tiếp giữa hai bên.
Phương thức này rất đơn giản, ở đây Ngân hàng chỉ là người trung gian thực
hiện việc thanh toán theo uỷ nhiệm hưởng hoa hồng, không bị ràng buộc gì về
tránh nhiệm. Khi áp dụng phương thức này thì giữa hai bên mua bán phải có
tín nhiệm rất cao, việc thanh toán phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Vì
vậy chuyển tiền ít được sử dụng trong thánh toán hàng hoá ngoại thương mà
thường được sử dụng trong quan hệ trả nợ, tiền đặt cọc, tiền ứng trước, trả
tiền thừa, thanh toán những khoản chi phí phi mậu dịch hay tiền bồi thường.
Phương thức ghi sổ (Open account).
“ Là phương thức thanh toán mà người bán mở một tài khoản (hoặc một
quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng
9
hoá hay dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quý, nửa năm) người mua trả tiền
cho người bán”.
Đặc điểm của phương thức này là một phương thức thanh toán không có
sự tham gia của Ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi
thanh toán. Chỉ mở tài khoản đặc biệt, không mở tài khoản song biên. Nếu
người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi,
không có giá trị quyết toán giữa hai bên, chỉ có hai bên tham gia thanh toán:
người bán và người mua. Trình tự tiến hành:
(1). Giao hàng hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá.
(2). Báo nợ trực tiếp.
(3). Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến định
kỳ thanh toán.
(3)
(3) (3)
(2)
(1)
Phương thức này thường được dùng cho thanh toán nội địa, hai bên mua
bán phải thực sự tin cậy lẫn nhau. Dùng cho thanh toán tiền gửi bán hàng ở
nước ngoài, hay dùng trong thanh toán phi mậu dịch như: tiền cước phí vận
tải, tiền phí bảo hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, tiền lãi
cho vay và đầu tư. Dùng cho phương thức hàng đổi hàng, nhiều lần thường
xuyên trong một thời kỳ nhất định. Phương thức này chỉ có lợi cho người
mua.
Ngân hàng bên bán Ngân hàng bên
mua
Người bán Người mua
10
Phương thức thanh toán nhờ thu( Collection of payment).
“ Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh toán quốc tế
trong đó người xuất khẩu (người bán) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu (người mua), uỷ thác cho
Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài, trên
cơ sở hối phiếu do người xuất khẩu ký phát”.
Trong thanh toán quốc tế, khi sử dụng phương thức này các nước thường
vận dụng “ Bản quy tắc thông nhất về nhờ thu chứng từ thương mại – ICC
522” do phòng thương mại quốc tế Paris ban hành, bản sửa đổi năm 1995.
* Quy trình thanh toán uỷ thác thu:
Khi việc chi trả được tiến hành theo phương thức uỷ thác thu, thì có thể
mô tả khái quát quy trình đó như sau:
(1). Căn cứ vào hợp đông mua bán ngoại thương, người xuất khẩu tiến
hành gửi hàng cho người nhập.
(2). Ngay sau khi đã gửi hàng ra nước ngoài, người xuất khẩu lập bộ
chứng từ, phát hành hối phiếu và gửi cho Ngân hàng phục vụ mình để nhờ
Ngân hàng thu hộ tiền.
(3). Nhận đựơc bộ chứng từ hàng hoá, hối phiếu do người xuất khẩu gửi
tới, Ngân hàng xuất khẩu tiến hành kiểm tra chứng từ và lập thư uỷ nhiệm, rồi
gửi các chứng từ ấy cho Ngân hàng nước người nhập khẩu.
(4). Nhận được các chứng từ từ Ngân hàng xuất khẩu, Ngân hàng nhập
khẩu phải kiểm tra những nội dung trên các chứng từ đó, rồi thông báo cho
người nhập khẩu biết.
(5). Sau khi đựơc thông báo về bộ chứng từ do người xuất khẩu gửi tới.
Nếu nhất trí, thì người nhập khẩu phải chấp nhận trả tiền hối phiếu hoặc trả
tiền ngay bộ chứng từ đó.
11
(6). Sau khi đã được người nhập khẩu trả tiền, Ngân hàng nhập khẩu làm
thủ tục chuyển trả số tiền ấy cho người xuất khẩu thông qua Ngân hàng xuất
khẩu.
(7). Khi đã nhận được tiền do Ngân hàng nhập khẩu chuyển tiền đến,
Ngân hàng xuất khẩu trả số tiền đó cho người xuất khẩu.
(1)
(2) (7) (4) (5)
(3)
(6)
Trong thanh toán uỷ thác thu, nếu người xuất khẩu không thực hiện trọn
vẹn và đầy đủ các cam kết với người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán
ngoại thương thì người nhập khẩu có quyền từ chối thanh toán (một phần hay
toàn bộ) số tiền trên giấy đòi tiền của người xuất khẩu.
Trong thanh toán uỷ thác thu, người xuất khẩu thông qua Ngân hàng chỉ
khống chế được quyền định đoạt hàng hoá, mà chưa khống chế được việc trả
tiền của người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể bằng cách chưa nhận bộ
chứng từ hàng hoá, để kéo dài việc trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc có thể
không trả tiền khi tình hình thị trường bất lợi cho họ.
Đối với hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu, Ngân hàng chỉ là người trung
gian thu hộ tiền cho người xuất khẩu, còn không có trách nhiệm với việc trả
tiền của người nhập khẩu. Hình thức này tuy về thủ tục có phần đơn giản song
việc trả tiền còn chậm.
Trong thanh toán ngoại thương, nhờ thu được chia làm hai loại:
Người xuất khẩu Người nhập
khẩu
Ngân hàng
nước xuất khẩu
Ngân hàng nước
nhập khẩu
12
a. Nhờ thu phiếu trơn (nhờ thu không kèm chứng từ – Clean collection):
Khi việc đòi tiền chỉ dựa trên chứng từ đòi tiền là hối phiếu do người xuất
khẩu ký phát, mà không kèm theo các chứng từ hàng hoá, thì được gọi là nhờ
thu phiếu trơn.
Loại này thường được dùng trong thanh toán tiền chi trả về dịch vụ, cước
phí bảo hiểm, tiền phạt, tiền bồi thường,…
b. Uỷ thác thu kèm chứng từ (Documentary collectttion). Khi việc đòi
tiền, ngoài hối phiếu do người xuất khẩu ký phát, còn phải kèm theo các
chứng từ về hàng hoá, gọi là uỷ thác thu kèm chứng từ.
Tuỳ theo cách thức trả tiền của người nhập khẩu, mà uỷ thác thu kèm
chứng từ có thể là chấp nhận trả tiền trao chứng từ (Documents against
acceptance – D/A) hoặc trả tiền trao chứng từ (Documents against payment –
D/P).
Nếu là D/A thì người nhập khẩu phải ký tên chấp nhận trả tiền trên hối
phiếu do người xuất khẩu ký phát, thì mới được nhận hàng trao cho bộ chứng
từ hàng hoá.
Nếu là D/P thì người nhập khẩu phải trả ngay số tiền theo tờ phiếu trả
tiền ngay do người xuất khẩu lập, thì mới đuợc quyền lấy bộ chứng từ hàng
hoá từ Ngân hàng.
Phương thức tín dụng chứng từ (Letter of credit – L/C).
Trong thanh toán quốc tế nói chung, đặc biệt trong thanh toán ngoại
thương hình thức thanh toán bằng L/C được sử dụng rất phổ biến. Khi vận
dụng vào hình thức thanh toán này, các nước dựa vào “ Bản điều lệ và cách
thức thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ – UCP 500” do phòng thương
mại quốc tế Paris ban hành năm 1993.
Theo “ Bản điều lệ và cách thức thực hành thống nhất về tín dụng chứng
từ” thì tín dụng chứng từ được hiểu như sau:
13
“ Thư tín dụng (L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó
một Ngân hàng (Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của
người nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến chi nhánh hay đại lý của ngân
hàng này ở nước ngoài (Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) một L/C cho
người được hưởng (Người xuất khẩu) một số tiền nhất định trong thời hạn qui
định, với điều kiện người được hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù
hợp với những nội dung, điều kiện ghi trong thư tín dụng “.
Tham gia nghịệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng có thể gồm nhiều bên,
thông thường có các bên sau:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng (The applicant for the credit) là người
nhập khẩu (Người mua).
- Người hưởng thư tín dụng (The benifitciary) là người xuất khẩu (Người
bán).
Các ngân hàng liên quan: ít nhất có hai Ngân hàng tham gia: Ngân hàng
mở L/C còn gọi là Ngân hàng phát hành L/C (The issuing bank), Ngân hàng
này có trách nhiệm trích trả tiền cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ
chứng từ phù hợp với L/C; Ngân hàng thông báo L/C (Advising Bank) là Chi
nhánh Ngân hàng hoặc đại lý của Ngân hàng phát hành L/C hoặc Ngân hàng
phục vụ người xuất khẩu.
Tuỳ theo từng L/C cụ thể, mà còn có các Ngân hàng khác tham gia như:
- Ngân hàng thanh toán, chiết khấu (The Negotiating Bank) : Ngân hàng
này trực tiếp trả tiền cho L/C. Trên thực tế Ngân hàng thanh toán L/C chính là
Ngân hàng L/C hoặc Ngân hành thông báo, hoặc một ngân hàng nào đó do
Ngân hàng phát hành L/C chỉ định.
- Ngân hàng xác nhận L/C (The confirming Bank). Theo yêu cầu của
người hưởng lợi, một Ngân hàng đứng ra xác nhân L/C sẽ cùng với Ngân
hàng phát hành L/C có trách nhiệm trả tiền đối với L/C.
* Qui trình thanh toán L/C:
14
(1). Người nhập khẩu dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương ký với
người xuất khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình, yêu cầu
Ngân hàng này mở L/C cho người xuất khẩu hưởng.
(2). Theo đơn xin mở L/C, Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu mở một
L/C (phát hành L/C) cho người xuất khẩu hưởng. Ngân hàng này chuyển bản
chính L/C cho người xuất khẩu (Ngân hàng thông báo).
(3). Ngân hàng xuất khẩu xác nhận L/C bằng văn bản và gửi bản chính
L/C cho người xuất khẩu.
(4). Căn cứ vào nội dung của L/C, Người xuất khẩu thực hiện giao hàng
cho người nhập khẩu.
(5). Sau khi hoàn tất việc gi