Luật phá sản - Chương 5: Pháp luật về phá sản doanh nghiệp

I. Vai trò của pháp luật về phá sản trong nền kinh tế thị trường: 1. Khái quát về phá sản: Theo ngôn ngữ chung ở nhiều quốc gia, thuật ngữ “phá sản” đều được sử dụng để diễn tả tình trạng khó khăn về tài chính của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện cụ thể của tình trạng đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Ở Việt Nam, cùng với thuật ngữ “phá sản” thì người ta còn dùng các từ: “khuynh gia, bại sản”, “khánh kiệt”, “ vỡ nợ” hay “ sập tiệm” để chỉ tình trạng tài chính trầm trọng của người mắc nợ.

ppt72 trang | Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 727 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật phá sản - Chương 5: Pháp luật về phá sản doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 5PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆPVăn bản pháp luật: Luật phá sản 2004; I. Vai trò của pháp luật về phá sản trong nền kinh tế thị trường: 1. Khái quát về phá sản: Theo ngôn ngữ chung ở nhiều quốc gia, thuật ngữ “phá sản” đều được sử dụng để diễn tả tình trạng khó khăn về tài chính của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện cụ thể của tình trạng đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Ở Việt Nam, cùng với thuật ngữ “phá sản” thì người ta còn dùng các từ: “khuynh gia, bại sản”, “khánh kiệt”, “ vỡ nợ” hay “ sập tiệm” để chỉ tình trạng tài chính trầm trọng của người mắc nợ. Nói cụ thể hơn, dù có thể được sử dụng ở các ngữ cảnh khác nhau song những từ đồng nghĩa này đều diễn tả tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của người mắc nợ khi có yêu cầu. Dưới góc độ pháp lý, phá sản được đề cập như là một thủ tục xử lý tình trạng mất khả năng thanh toán nợ của một chủ thể do Toà án tiến hành. TỔNG GIÁ TRỊ TÀI SẢNTỔNG NỢ ĐẾN HẠN Thông qua thủ tục này tất cả các chủ nợ đều có cơ hội tham gia vào việc thanh toán nợ và đều được nhận một phần nợ theo tỷ lệ tương ứng trong khối nợ chung. Như vậy, trong thủ tục phá sản thì tất cả các chủ nợ đều bình đẳng về quyền đòi nợ nhưng chỉ một phần yêu cầu thanh toán nợ của họ được thoả mãn. Trong nền KTTT phá sản DN là một hiện tượng kinh tế khách quan. Bởi vì: - DN về thực chất cũng là một thực thể xã hội. Cho nên, cũng có việc sinh ra, có phát triển và có diệt vong. - Nền KTTT với đa hình thức sở hữu, đa thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh theo sự tác động của các qui luật của KTTT, trong đó có qui luật cạnh tranh. Tất yếu sẽ có DN chiếm lĩnh thị trường và cũng có DN kinh doanh đình đốn, nợ nần, mất khả năng chi trả và lâm vào tình trạng phá sản. - Trong hoạt động kinh doanh cái mà DN thu được cũng là lợi nhuận nhưng đồng thời DN cũng phải chịu rủi ro. Theo thông kê của Ngân hàng thế giới thì tỷ lệ rủi ro là ¼. Lý do có thể do năng lực quản lý, thiếu khả năng thích ứng Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả kinh tế xã hội nhất định. Nhưng xét về mặt kinh tế Phá sản cũng là một giải pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của những DN đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh. 2. Phân loại phá sản. */ Phá sản trung thực và phá sản gian trá Sự phân biệt hành vi trung thực hay gian trá được xác định dựa vào sự phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp. Trong phá sản trung thực, tình trạng mất khả năng thanh toán nợ nằm ngoài mong muốn của chủ doanh nghiệp mắc nợ. Trái lại, tình trạng mất khả năng thanh toán nợ bị coi là giả tạo và gian trá, khi tình trạng đó được chủ doanh nghiệp mắc nợ sắp đặt trước và tạo ra nhằm lợi dụng việc tuyên bố phá sản để trốn tránh nghĩa vụ tài sản hoặc chiếm đoạt tài sản của chủ thể khác. Chẳng hạn, doanh nghiệp mắc nợ tạo ra vụ cháy kho chứa hàng rồi tuyên bố mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Việc phân loại này có ý nghĩa khi xác định thái độ đối xử của PL đối với con nợ. */ Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc. Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp luật: Phá sản tự nguyện: là pháp luật cho phép chủ doanh nghiệp mắc nợ được đệ đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản, khi thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, trong trường hợp này, pháp luật phải có các điều khoản qui định chặt chẽ để tránh việc doanh nghiệp mắc nợ lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của chủ nợ. Khác với phá sản tự nguyện, sự phá sản bắt buộc nằm ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mắc nợ, bởi tuyên bố phá sản được Toà án đưa ra trên cơ sở yêu cầu của các chủ nợ. Việc phân loại này có ý nghĩa khi xây dựng hồ sơ vụ phá sản cũng như lựa chọn thủ tục phá sản thích hợp (phục hồi hay xử lý tài sản). */ Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân Phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia mà luật phá sản ở nước đó xác định phạm vi điều chỉnh riêng biệt. Ở một số nước (Úc) chỉ điều chỉnh hoạt động phá sản cá nhân; còn phá sản của các doanh nghiệp tuân theo qui định về phá sản trong Luật công ty. Ngược lại, Luật phá sản của nước ta chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp. Còn cá nhân nếu lâm vào phá sản thì giải quyết theo TTDS. 3. Pháp luật về phá sản: Pháp luật về phá sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX. Từ khái niệm trên cho chúng ta thấy được tính đặc thù của pháp luật phá sản thể hiện ở chỗ: Các qui định của pháp luật phá sản vừa chứa đựng qui phạm PL về nội dung vừa chứa đựng qui phạm PL về hình thức. - Qui phạm PL về nội dung: điều chỉnh quan hệ về tài sản giữa chủ nợ và con nợ, quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ đó. Khách thể của quan hệ này: là tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. - Qui phạm PL về hình thức: điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này. Khách thể của quan hệ này: chính là quá trình giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX. a. Những yếu tố ảnh hưởng đến nội dung luật phá sản: - Nội dung của luật phá sản bị quyết định bởi tính chất của nền kinh tế. (nó chỉ tồn tãi trong nền KTTT). - Nội dung của luật phá sản chỉu ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế. Điều này lý giải vì sao pháp luật phá sản của các quốc gia lại khác nhau. - Nội dung của luật phá sản phụ thuộc vào khả năng làm chủ của các DN trong việc giải quyết công việc phá sản. Ở VN thì Tòa án vẫn đòng vai trò quan trọng trong giải quyết phá sản. - Nội dung của luật phá sản chịu sự tác động của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. */ Đặc điểm của phá sản. - Phá sản là một thủ tục thanh toán nợ đặc biệt. Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản. - Thanh toán theo danh sách chủ nợ. Tất cả các chủ nợ (đến hạn và chưa đến hạn). - Thanh toàn nợ trong phá sản là thanh toán trên cơ sở giá trị tài sản còn lại của DN. - Thanh toán nợ không chỉ bình đẳng mà còn dân chủ. - Chấm dứt hoạt động của DN và thường áp dụng chế tài đối với chủ DN (cấm KD 1- 3 năm). b. Nội dung cơ bản của luật phá sản 2004. Chương I: Những qui định chung. Chương này bao gồm những qui định xác định đối tượng và phạm vi áp dụng của Luật phá sản; xác định tình trạng phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Chương II: Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Chương này qui định những đối tượng nào có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và khi nào thì được nộp đơn cũng như việc thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của Tòa án có thẩm quyền. Chương III: Nghĩa vụ về tài sản. Chương này xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản; thứ tự phân chia tài sản và việc xử lý các tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong các trường hợp cầm cố, thế chấp, nghĩa vụ liên đới hoặc bảo lãnh,v.v Chương IV: Các biện pháp bảo toàn tài sản. Chương này qui định các biện pháp đảm bảo tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã có yêu cầu tuyên bố phá sản không bị thất thoát trong thời gian Tòa án tiến hành mở thủ tục tuyên bố phá sản đến khi thực hiện hoàn tất thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Chương V: Hội nghị chủ nợ. Chương này qui định ai có quyền tham gia vào hội nghị chủ nợ; trình tự thủ tục tiến hành hội nghị chủ nợ; nhiệm vụ và quyền hạn của hội nghị chủ nợ cũng như những vấn đề có liên quan đến hội nghị chủ nợ. Chương VI: Thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý. Chương VII: Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Chương VIII: Xử lý vi phạm Chương IX: Điều khoản thi hành. Luật phá sản có hiệu lực ngày 15 tháng 10 năm 2004, đây là văn bản quan trọng của nước ta về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. 4. Vai trò của pháp luật phá sản. - Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ nợ, cung cấp cho các chủ nợ công cụ để thực hiện việc đòi nợ. Có hai phương pháp đòi nợ: đòi nợ bằng biện pháp thông thường và đòi nợ bằng cơ chế đặc biệt. Chính nhờ thủ tục phá sản mà các chủ nợ một phương cách hữu hiệu nhất để bảo vệ lợi ích của mình, hạn chế tình trạng chây ỳ, dây dưa trong việc thanh toán công nợ, suy cho cùng là tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh làm ăn. - Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, đem lại cho các DN đang trong tình trạng phá sản một cơ hội phục hồi hoặc rút khỏi thị trường một cách có trật tự. Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt vấn đề bảo vệ lợi ích cho các con nợ. Người ta cho rằng, phá sản là tội phạm và bị trừng phạt. Ngày nay, không còn quan niệm như vậy nữa. Tuyệt đại đa số các nước đều cho rằng, kinh doanh là việc khó, đầy rủi ro, vì vậy, pháp luật cần phải đối xử nhân đạo với các nhà doanh nghiệp. Chính vì vậy mà Nhà nước đã: - Không bắt tù họ. - Ngăn cấm các chủ nợ có hành vi xúc phạm thể xác và tinh thần của con nợ. - Bằng mọi cách tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ khắc phục khó khăn để khôi phục lại sản xuất mà không tuyên bố phá sản ngay. - Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của người lao động. - Pháp luật phá sản góp phần tổ chức và cơ cấu lại nền kinh tế. - Pháp luật phá sản bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội. 5. Sự khác nhau giữa phá sản và giải thể: Xét về mặt hiện tượng thì phá sản và giải thể một cơ sở sản xuất kinh doanh tưởng như là giống nhau, vì phá sản hay giải thể đều dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của cơ sở sản xuất kinh doanh và việc phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải quyết quyền lợi cho người làm công. Nhưng về bản chất đây là hai chế định khác nhau. Thứ nhất là sự khác nhau ở lý do giải thể và phá sản. Nếu như giải thể có nhiều lý do như người kinh doanh không muốn kinh doanh hoặc hết thời hạn kinh doanh, hoặc hoàn thành mục tiêu đã định, hoặc không thể tiếp tục kinh doanh vì làm ăn thua lỗ, Thì phá sản chỉ có một lý do duy nhất, đó là mất khả năng thanh toán các khoản nợ một cách trầm trọng. Thứ hai là sự khác nhau ở tính chất của cơ quan thực hiện hành vi giải thể và phá sản. Nếu giải thể do chính chủ cơ sở sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp, hợp tác xã) hoặc cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện (quyết định). Thì phá sản do cơ quan duy nhất có quyền quyết định tuyên bố phá sản là Tòa án - cơ quan tài phán Nhà nước. Thứ ba là sự khác nhau ở tính chất của thủ tục tiến hành giải thể và phá sản. - Thủ tục giải thể là một thủ tục hành chính. - Thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp có tính tố tụng cao. Thứ tư là sự khác nhau ở cách thức thanh toán tài sản. - Khi giải thể chủ doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã trực tiếp thanh toán tài sản, giải quyết mối quan hệ nợ nần với chủ nợ. - Còn khi phá sản, việc thanh toán tài sản, phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã được thực hiện thông qua một cơ quan trung gian là tổ thanh toán tài sản sau khi có quyết định tuyên bố phá sản. Thứ năm là sự khác nhau ở hậu quả của thủ tục. - Nếu như giải thể bao giờ củng dẫn đến việc chấm dứt hoạt động, xoá sổ doanh nghiệp, hợp tác xã về mặt thực tế. - Nhưng việc phá sản không phải bao giờ cũng dẫn đến kết cục như vậy. Ví dụ: một người nào đó mua lại toàn bộ doanh nghiệp để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp này chỉ có sự thay đổi sở hữu chủ đối với doanh nghiệp đó mà thôi. Thứ sáu là khác nhau ở thái độ của Nhà nước đối với người quản lý doanh nghiệp bị giải thể và phá sản. Nếu DN, HTX phá sản thì Giám đốc, chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị bị hạn chế quyền tự do kinh doanh thể hiện ở chỗ bị cấm giữ chức vụ đó từ một đến ba năm ở bất kỳ doanh nghiệp nào. - Còn trong trường hợp doanh nghiệp bị giải thể thì chủ doanh nghiệp và những người quản lý điều hành không bị hạn chế quyền đó. 6. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Điều kiện 1Điều kiện 2Không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạnKhi chủ nợ có yêu cầu DN, HTX – LÂM VÀO PSNộp đơn y/c mở TT PSTA nhận đơn, xem xétThụ lý đơn – mở TT PSTuyên bố PS trong trường hợp đặc biệt (không còn tài sản)Thủ tục phục hồiThủ tục thanh toán (không phục hồi được)Tuyên bố PS, xóa tên DN, HTXĐình chỉ (nếu phục hồi được)Thanh toán TS (nếu ko phục hồi được)Tuyên bố PS, xóa tên DN, HTXII. THỦ TỤC PHÁ SẢN. 1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đối với nhà kinh doanh, uy tín là điều rất quan trọng, do đó, sự mở rộng một cách tùy tiện phạm vi chủ thể có quyền này sẽ gây thiệt hại cho các nhà kinh doanh. Ngược lại, sự hạn chế các chủ thể có liên quan đến việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản cũng sẽ làm phương hại đến lợi ích chính đáng của họ. Giải pháp mà Luật phá sản của nước ta lựa chọn chỉ có ba chủ thể sau đây mới có quyền làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN, HTX: a. Chủ nợ: Pháp luật về phá sản được đặt ra trước hết là nhằm bảo vệ các chủ nợ. Do vậy, đối tượng đầu tiên được pháp luật qui định có quyền này là chủ nợ. Tuy nhiên, chủ nợ có bảo đảm không được quyền làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Vì vậy, Điều 13 Luật phá sản qui định chỉ có các chủ nợ sau đây mới có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã: chủ nợ không có đảm bảo, chủ nợ có đảm bảo một phần. b. Người lao động: Luật phá sản đã cho phép họ quyền được làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nơi họ đang làm việc với điều kiện: doanh nghiệp, hợp tác xã không trả lương, các khoản khác khi đến tháng và người lao động nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, điều kiện để người lao động được làm đơn: - Tính chất là nợ lương, các khoản khác lương; - Không tính đến thời hạn nợ lương là bao lâu; - Có văn bản thể hiện ý chí chung của tập thể người lao động về việc đưa doanh nghiệp, hợp tác xã ra Tòa án để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản (Thí dụ: Nghị quyết của Công đoàn). c. Doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ: Theo Khoản 1 Điều 15 Luật phá sản thì sau khi phát hiện mình đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn không thoát khỏi tình trạng đó thì chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản, nếu không thì phải chịu trách nhiệm theo qui định của pháp luật. Cụ thể: chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước; cổ đông hoặc một nhóm cổ đông công ty cổ phần theo qui định của điều lệ công ty, nếu điều lệ của công ty cổ phần không qui định thì cổ đông hoặc một nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian ít nhất 06 tháng; thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh. Như vậy, so với các chủ nợ thì làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản của các doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ là nghĩa vụ chứ không phải là quyền. 2. Thẩm quyền tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã:Các nước khác nhau thành lập các cơ quan khác nhau để giải quyết việc phá sản: Tòa án phá sản, Tòa án Trọng tài, ở các nước khác là Tòa án Ở Việt Nam cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là: + Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện đó. + Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó. Trong trường hợp cần thiết Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Tòa kinh tế) lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. 3. Thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã: Theo Điều 5 Luật phá sản qui định thì thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã bao gồm: - Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;- Phục hồi hoạt động kinh doanh;- Thanh lý tài sản, các khoản nợ;- Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. 4. Quyền hạn, nghĩa vụ của các bên trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã: a. Thẩm phán: Thẩm phán là người đứng ngoài quan hệ chủ nợ – con nợ trong vụ phá sản, nhân danh Nhà nước giải quyết mọi vấn đề cơ bản liên quan đến vụ phá sản. Việc tiến hành thủ tục phá sản tại Tòa án nhân cấp cấp huyện do Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định cử một Thẩm phán phụ trách. Tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì tùy tính chất của từng vụ mà Chánh tòa Toà kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh quyết định cử một hay tổ Thẩm phán gồm ba Thẩm phán phụ trách trong trường hợp này một Thẩm phán được giao làm tổ trưởng. Thẩm quyền của Thẩm phán được qui định trong Điều 8 Luật phá sản. Cụ thể: Thẩm phán hoặc tổ Thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn giám sát, tiến hành thủ tục phá sản; ra quyết định mở thủ tục phá sản ra quyết định thành lập tổ quản lý, thanh lý tài sản, triệu tập hội nghị chủ nợ. Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài liệu (bản sao) cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét việc khởi tố về hình sự và vẫn tiến hành thủ tục phá sản theo luật định. Thẩm phán chịu trách nhiệm trước Chánh án và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. b. Tổ quản lý tài sản: Tâm lý chung của các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là muốn tẩu tán tài sản, thà cho người thân hoặc tự tiêu xài còn hơn là để trả lại cho các chủ nợ. Vì vậy, xuất hiện yêu cầu phải bảo toàn khối tài sản còn lại của con nợ để sau này bán đi thanh toán cho các chủ nợ. Công việc này là rất quan trọng và phức tạp, do đó phải được một cơ quan chuyên trách tiến hành là Tổ quản lý tài sản. Thành phần của Tổ quản lý tài sản được qui định tại Khoản 2 Điều 9 Luật phá sản, bao gồm: + Một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng; + Một cán bộ của Tòa án; + Một đại diện chủ nợ; + Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản; + Đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong trường hợp cần thiết thì Thẩm phán xem xét, quyết định. Nhiệm vụ chủ yếu của tổ quản lý tài sản là xác định thực trạng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (có bao nhiêu, nợ bao nhiêu) và ở mức độ nào đó tham gia quản lý tài sản đó. Tổ quản lý tài sản không có chức năng tham gia quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã. Công việc này vẫn thuộc về chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của chủ doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ. c. Hội nghị chủ nợ: Hội nghị chủ nợ là cơ quan duy nhất của các chủ nợ được thành lập để giải quyết một cách tập thể các vấn đề liên quan đến lợi ích của họ.* * Thành phần của Hội nghị chủ nợ bao gồm: + Chủ nợ + Chủ DN, HTX mắc nợ hoặc đại diện hợp pháp + Đại diện cho người lao động, đại diện Công đoàn được người lao động uỷ quyền; + Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này họ trở thành chủ nợ không có đảm bảo. * Hội nghị chủ nợ có những quyền hạn chủ yếu sau đây: + Xem xét, thông qua phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh do doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ đưa ra. + Trong trường hợp không thông qua phương án đó thì thảo luận và kiến nghị với Thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất phải được triệu tập trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập xong danh sách chủ nợ. Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất được coi là hợp lệ khi có quá nửa số chủ nợ không có đảm bảo đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia; * Hội nghị chủ nợ được hoãn một lần, nếu có một trong các điều kiện sau đây: + Không đủ quá nửa số chủ nợ không có đảm bảo đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia; + Quá nửa số chủ nợ không có đảm bảo có mặt tại Hội nghị chủ nợ biểu quyết đề nghị hoãn Hội nghị chủ nợ; + Người có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ theo qui định của pháp luật vắng mặt có lý do chính đáng. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định hoãn Hội nghị chủ nợ thì trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn Hội nghị chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập lại Hội nghị chủ nợ. 5. Tổ chức Hội nghị chủ nợ và phục hồi kinh doanh. Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Tài liệu liên quan