Lý thuyết công tác xã hội

CTXH đã được hình thành như một nghề giúp đỡ con người c ó vấn đề liên quan đến chức năng xã hội (là các chức năng của con người liên quan đến tiếp xúc xã hội) tại một số quốc gia như ở Mỹ, Anh, Pháp, Úc , Ca-na-đa v.v. Tại đây có những người hành nghề CTXH, khách hàng (thân c hủ) của họ và có những cơ quan CTXH. Lý thuyết CTXH đã dần dần được hình thành trong quá trình thực hiện CTXH. Chính thực tiễn hành nghề CTXH đã tạo dựng nên lý thuyết CTXH, Sự phát triển của CTXH đến đâu đã hình thành nên lý thuyết CTXH tới đó. Song, tại một quốc gia như Việt Nam hiện nay, khi CTXH chưa là một ngành, chưa là một nghề, khi người ta muốn ứng dụng CTXH, muốn sử dụng lý thuyết CTXH, người ta lại phải thực hiện một quá trình ngược lại, phải xem xét lý thuyết này phù hợp đến đâu với văn hóa dịa phương, truyền thống địa phương, có lơi ích như thế nào và lợi ích đến đâu cho người dân địa phương. Việc ứng dụng này đòi hỏi trước hết sự hiểu biết tương đối thấu đáo về thực trạng các lý thuyết đang được đa số chấp nhận.

pdf100 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 11057 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý thuyết công tác xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LÝ THUYẾT CÔNG TÁC XÃ HỘI 2 Bài 1: Sự hình thành lý thuyết CTXH Lý thuyết CTXH hình thành và ứng dụng CTXH đã được hình thành như một nghề giúp đỡ con người có vấn đề liên quan đến chức năng xã hội (là các chức năng của con người liên quan đến tiếp xúc xã hội) tại một số quốc gia như ở Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Ca-na-đa v.v. Tại đây có những người hành nghề CTXH, khách hàng (thân chủ) của họ và có những cơ quan CTXH. Lý thuyết CTXH đã dần dần được hình thành trong quá trình thực hiện CTXH. Chính thực tiễn hành nghề CTXH đã tạo dựng nên lý thuyết CTXH, Sự phát triển của CTXH đến đâu đã hình thành nên lý thuyết CTXH tới đó. Song, tại một quốc gia như Việt Nam hiện nay, khi CTXH chưa là một ngành, chưa là một nghề, khi người ta muốn ứng dụng CTXH, muốn sử dụng lý thuyết CTXH, người ta lại phải thực hiện một quá trình ngược lại, phải xem xét lý thuyết này phù hợp đến đâu với văn hóa dịa phương, truyền thống địa phương, có lơi ích như thế nào và lợi ích đến đâu cho người dân địa phương. Việc ứng dụng này đòi hỏi trước hết sự hiểu biết tương đối thấu đáo về thực trạng các lý thuyết đang được đa số chấp nhận. Lý thuyết thực hành CTXH là một nghề thực hành. Do đó, lý thuyết CTXH cũng là lý thuyết thực hành. Lý thuyết thực hành là một loại lý thuyết hướng dẫn hành động của nhân viên CTXH, giúp họ giải thích hành động của mình bằng cách trả lời các câu hỏi “Vì sao?” hay “Như thế nào?”. Nhân viên CTXH giúp khách hàng giải quyết một vấn đề chức năng xã hội cũng như bác sĩ giúp bệnh nhân chữa bệnh; họ phải tiếp cận khách hàng, đánh giá tình hình vấn đề của khách hàng, đưa ra các phương án can thiệp, lựa chọn phương án can thiếp, thực hiện can thiệp, đánh giá kết quả can thiệp và kết thúc quá trình can thiệp. Để làm tất cả các việc đó, nhân viên CTXH cần có lý thuyết hướng dẫn cho các công đoạn hành động của mịnh Khái niệm về lý thuyết Khái niệm lý thuyết trong CTXH bao gồm “mô hình” (models), “phối cảnh” (perspectives), và “lý thuyết giải thích hiện tượng” (explanatory theories). 3 -“Mô hình” mô tả một cách chung nhất cái gì thường xẩy ra trong thực hành, nêu lên tình huống bao quát nhất, và đưa ra một dạng cấu trúc cho ý tưởng. Mô hình đúc kết các nguyên tắc và loại hình của hoạt động, giúp cho thực hành có một dáng dấp nhất định. Mô hình cung cấp cho nhân viên CTXH ý tưởng để kết cấu và tổ chức tiếp cận cho một tình huống phức tạp. Thí dụ về mô hình: “Mô hình thực hành nhiệm vụ tập trung”. -“Phối cảnh” nêu lên các giá trị và quan điểm về thế giới ta sống giúp cho người trong cuộc tổ chức ý nghĩ của mình đủ để làm chủ bản thân mình khi vào cuộc. Phối cảnh giúp ta suy nghĩ một cách có tổ chức về cái gì đang xẩy ra. Ứng dụng các phối cảnh khác nhau giúp ta có cách nhìn từ nhiều góc độ khác nhau về một tình huống nào đó. Thí dụ về phối cảnh: “Phối cảnh các lý thuyết hệ thống”, “Phối cảnh nữ giới” (feminist). -“Lý thuyết giải thích hiện tượng” giải thích vì sao một hành động lại dẫn đến kết quả hay hậu quả nào đó, xác định tình huống để xẩy ra hành động. Có người sử dụng từ trị liệu vì ở đây có ý nghĩa nguyên nhân và hậu quả. Lý thuyết cho ta biết cái gì hoạt động, cái gì xẩy ra. Lý Thí dụ về lý thuyết: “Lý thuyết nhận thức hành vi”. Mô hình, phối cảnh hay lý thuyết giải thích hiện tượng đều ùng quan trọng trong một loại lý thuyết nhất định. Thực hành CTXH trong một thế giới phức tạp cần có các phối cảnh và các lý thuyết giải thích cho một mô hình hướng dẫn hành động thực hành. Lý thuyết bao gồm lý thuyết nói lên CTXH là gì, lý thuyết nói lên thực hiện CTXH như thế nào, và lý thuyết của thế giới khách hàng. Có loại lý thuyết chính thức (formal), có loại lý thuyết không chính thức (informal). Lý thuyết chính thức là lý thuyết được viết ra và được tranh luận trong giới chuyên môn. Lý thuyết không chính thức là lý thuyết đúc rút từ kinh nghiệm, từ dân gian. Lý thuyết không chính thức mang tính “quy nạp” (induction) khái quát hóa một trường hợp cụ thể. Quy nạp là quá trình ngược lại của “suy diễn” (deduction) là quá trình suy ra từ một lý thuyết cho một trường hợp cụ thể. Khái niệm về kết cấu xã hội (của phúc lợi và CTXH) Kết cấu xã hội (social constructtion) là một khái niệm xã hội học cho rằng các vấn đề xã hội khác với thế giới tự nhiên ở chỗ coi “thực tế” (reality) là một tri thức xã hội hướng dẫn hành vi của ta nhưng mỗi người lại có cách nhìn khác nhau về nó. Người ta có thể tiến tới sự chia xẻ cách nhìn về “thực tế” thông qua các quá trình xã hội khác nhau; chúng tổ chức ra cách nhìn này và làm cho cách nhìn này khách quan hơn. Chính kết cấu xã hội tạo ra ý nghĩa chính trị của lý thuyết. Các nhóm quyền lợi khác nhau có thể có sự 4 chia xẻ khác nhau về tri thức xã hội. Có ba cách nhìn về CTXH từ ba góc của một tam giác: 1. Cách nhìn trị liệu phản xã (reflexive-therapeutic views), 2. Cách nhìn tập thể xã hội chủ nghĩa (Socialist-collective views), 3. Cách nhìn cá thể cải tổ (Individualist-reformist views). - Cách nhìn trị liệu phản xã (reflexive-therapeutic views):Dominelli (2002) còn gọi cách nhìn này là lấy trị liệu làm tiếp cận để giúp đỡ (thẻapeutic helping approaches). Cách nhìn này tìm kiếm sự thoải mái (wellbeing) nhất cho cá nhân, nhóm và cộng đồng bằng cách nâng cao và hỗ trợ sự phát triển và sự tụ khảng định mình (self fulfilment). Một vòng xoắn quan hệ giữa nhân viên CTXH và khách hàng làm thay đổi ý nghĩ của khách hàng và giúp nhân viên CTXH tác động vào nó (ý nghĩ). Ngươc lại vòng xoắn quan hệ này cũng tác động vào nhân viên CTXH giúp nhân viên CTXH hiểu rõ hơn về thế giới họ đang sống (thế giới của nhân viên CTXH và khách hàng) qua đó nhân viên CTXH có thêm được kinh nghiệm nghề nghiệp. Mối quan hệ qua lại trong trị liệu này làm cho nó có tính chất phản xạ; nó đáp ứng được quan tâm của nhân viên CTXH mong muốn có thêm được hiểu biết và kinh nghiêm trong thực hành; nó giúp khách hàng có được năng lực kiềm chế cảm xúc và cách sống của mình. Năng lực này làm cho con người có thể vượt lên sự thống khổ và thiệt thòi của bản mình. Cách nhìn này trong CTXH là cách nhìn đòi hỏi sự song hành của triết lý kinh tế chình trị xã hội dân chủ và phát triển kinh tế xã hội hướng tới sự hoàn thiện của cá nhân và xã hội. Song cách nhìn này có thể bị chyển dịch bởi hai cách nhìn sau đây. - Cách nhìn tập thể xã hội chủ nghĩa (Socialist-collective views): Cách nhìn này tìm kiếm dự hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong xã hội để nhóm người bị đàn áp và yếu thế thu hoạch được sức mạnh (power) cho cuộc sống của mình. Dominelli (2002) gọi tiếp cận này là “tiếp cận nổi loạn” (emancipatory approaches) bởi vì nó giải phóng con người khỏ sự áp bưacs. Pease và Fook (1999) gọi nó là “tiếp cận chuyển hóa” (transformational) bởi vì nó tìm cách thay đổi xã hội vì lợi ích của những người bi áp bức. Tiếp cận này đề cao công lý xã hội; nó mang tính triết lý xã hội chủ nghĩa, triết lý của kinh tế kế hoạch hóa và triết lý của cung ứng xã hội tạo ra sự công bằng ngang bằng giữa mọi người (equality) và công bằng xã hội. - Cách nhìn cá thể cải tổ (Individualist-reformist views): Cách nhìn này coi CTXH là một dạng dịch vụ phúc lợi xã hội cho các cá nhân trong các xã hội. Nó đáp ứng các nhu cầu cá nhân và cải thiện dịch dịch vụ bao gồm cả dịch vụ CTXH; nó làm cho dịch vụ được thực hiện một cách có hiệu quả hơn. Dominelli (2002) gọi cách nhìn này là tiếp cận duy trì (maintenance approaches) vì nó nhằm duy trì trật tự xã hội và các nền tảng xã hội (social fabric), duy trì nhân dân trong các giai đoạn khó khăn mà họ phải trải nghiệm để họ có thể phục hồi được sự cân bằng. Cách nhìn này triết lý kinh 5 tế chính trị tự do (hay hợp lý) trong đó có tự do cá nhân trong kinh tế thị trường được bảo vệ bởi luật pháp. Tổng hợp các khái niệm về lý thuyết và các cách nhìn về CTXH trong khái niệm về kết cấu xã hội, người ta có thể phân loại các lý thuyết CTXH trong một ma trận như sau: Loại lý thuyết Trị liệu phản xạ Tập thể xã hội chủ nghĩa Cá thể cải tổ Phối cảnh -Toàn diện (comprehensive) -Quy nạo (inclusive) -Tâm lý động học -Nhân văn sinh tồn -Phê phán -Chống áp bức -Phát triển xã hội -Hệ thống Lý thuyết -Kết cấu -Nữ giới học -Nhânh thức hành vi Mô hình -Khủng hoảng -Nâng cao vai trò Nhiệm vụ tập trung Tranh luận về “hình mẫu” (paradigm) của CTXH Câu hỏi được đặt ra là có một hình mẫu chung nào cho CTXH không? Kuhn (1970) dùng từ paradigm (hình mẫu?) để nói cách nhìn chung về bản chất hiện tượng vật lý hay tự nhiên trong khoa học; ông cho rằng các hoạt động khoa học như phương pháp nghiên cứu, thực nghiệm, xây dựng lý thuyết, v.v. đều được xây dựng trên một mẫu hình nhất định. Cách mạng khoa học kỹ thuật làm thay đổi thế giới quan về kết cấu của các hiện tượng; nó làm thay đổi quan niệm về hiện tượng và hình thành ra “hình mẫu” mới. Như vậy, “hình mẫu” được coi là một loại hình (pattern) hay một khuận mẫu (template). Cách nhìn về nghề CTXH về phạm vi tri thức của CTXH được coi là hình mẫu của CTXH. Hiện nay có CTXH của các nước phương Tây. Nhưng, ngay CTXH của Pháp và của Mỹ cũng có nhiều điểm khác nhau; có thể coi CTXH của Pháp và của Mỹ trong chung một hình mẫu không? Hoặc có thể coi CTXH của các nước phương Tây là hình mẫu để ứng dụng cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam hay không? Đây là những câu hỏi được 6 đặt ra và có nhiều ý kiến trả lời khác nhau; ý kiến nào cũng có lý lẽ sắc bén, song chưa ý kiến nào thực sự có tính thuyết phục. Một câu hỏi nữa được đặt ra là “Sự phát triển của CTXH đã có ý nghĩa như một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật để hình mẫu của nó cũng phải thay đổi chưa? Cũng có nhiều ý kiến trả lời, có ý kiến nói “rồi”, có ý kiến nói “chưa”; và cũng chưa có ý kiến nào thực sự thuyết phục. Tranh luận về lý thuyết CTXH mang tính hiện đại (modernist) hay hậu hiện đại (post modernist) Khái niệm “hiên đại” gắn với cuộc cách mạng lật đổ sự áp đặt của tôn giáo đối với cách suy nghĩ của con người. Khái niệm này cho sự việc phải gắn với bối cảnh xã hội (địa điểm và con người) và thời gian; nó mang tính khoa học và hợp lý. Khái niệm này còn cho răng người ta có thể hiểu được các vấn đề của xã hội cũng như hiểu được xã hội và có thể có hành động hợp lý cho các vấn đề xã hội, thay đổi được con người và xã hội. Khái niệm “hậu hiện đại” là khái niệm được hình thành để phản bác lại khái niệm “hiện đại”. Khái niệm này đưa ra một cách nghĩ khác về tri thức và sự hiểu biết. Khái niệm này cho răng tri thức luôn luôn được kết cấu từ xã hội vì sự lụa chọn tri thức nào để phát triển phụ thuộc vào ý muốn xã hội. Điều này có nghĩa là khái niệm “hậu hiện đại” nhìn nhận sự việc không rõ ràng nhất quán qua các bối cảnh và thời gian khác nhau; luôn luôn gây tranh cãi, và người ta chỉ có thể hiểu được sự việc thông qua cách nhinc lịch sử và bối cảnh của vấn đề vì vấn đề và sự kiện có thể thay đổi ý nghĩa qua thời gian và qua sự thay đổi bối cảnh. Câu hỏi là “Công tác xã hội mang tính hiện đại hay hậu hiện đại?” Có ý kiến cho răng CTXH mang tính hiện đại, có ý kiến cho rằng CTXH mang tính hậu hiện đại, lại có ý kiến cho răng CTXH vừa mang tính hiện đại vừa mang tính hậu hiện đại. Tranh luận về các vòng quan hệ tương tác (arenas) trong CTXH. Có nhiều ý kiến về các mối quan hệ tương tác trong CTXH. Các ý kiến này tóm lại dẫn đến ba vòng quan hệ tương tác là còng quan hệ “chính trị - xã hội - lý tưởng” (political – social – ideological arena), quan hệ “cơ 7 quan – nghiệp vụ” (agency – professional arena), và quan hệ “khách hàng – nhân viên CTXH – cơ quan” (client – worker – agency). Vòng quan hệ “chính trị - xã hội - lý tưởng” là vòng quan hệ trong đó tranh luận chính trị xã hội hình thành xu thế chính trị hướng dẫn hình thành các cơ quan (dịch vụ CTXH) và mục tiêu hoạt động để phát triển cơ sở. Nhân viên CTXH thông qua các hội nghề nghiệp và các tổ chức khác cũng như thông qua uy tín ảnh hưởng của cơ quan mình để tác động vào vòng quan hệ tương tác này với tư cách là những người hoạt động xã hội, những cử tri bỏ phiều hay những người cầm bút phê phán. Vòng quan hệ tương tác này chỉ được thiết lập khi CTXH đã phát triển ở mức hoạt động với cộng đồng và các tổ chức lớn hơn. Vòng quan hệ tương tác “cơ quan – nghiệp cụ” là vòng quan hệ trong đó giới chủ tương tác với tập thể những người lam công thông qua các tổ chức như tổ chức công đoàn hoặc các hội nghề nghiệp, hai bên tác động ảnh hưởng lẫn nhau để hình thành ra những nhân tố cụ thể hơn, đặc hiệu hơn cho hoạt động CTXH Vòng quan hệ tương tác “khách hàng – nhân viên CTXH – cơ quan (bối cảnh)” là vòng quan hệ thường được cho là cơ bản nhất . Các đối tác nhân viên CTXH, khách hàng và cơ quan dịch vụ tác động ảnh hưởng qua lại nhau dẫn đến các quyết định phát triển CTXH theo hướng nhât định. Chính tác động này là yếu tố quan trọng dẫn đến sự hình thành các lý thuyết CTX. Kết cấu xã hội của lý thuyết thực hành Chính tương tác xã hội của các thành phần trong các vòng quan hệ tương tác, nhất là quan hệ tương tác giữa khách hàng, nhân viên CTXH và cơ quan dịch vụ CTXH đã tạo thành lý thuyết CTXH. Nhân viên CTXH là người sử dụng các lý thuyết CTXH phục vụ khách hàng trong bối cảnh của một cơ quan dịch vụ CTXH. Chất liệu để xây dựng lên lý thuyết CTXH trước hết phải từ khách hàng và từ bối cảnh thực hành giúp cho nhân viên CTXH đánh giá việc ứng dụng các lý thuyết, phát triển lý thuyết hay xây dựng lý thuyết mới. Trong điều kiện Việt Nam chưa có cơ sở nào được coi là cơ sở dịch vụ CTXH trên thực tế, cũng chưa có khách hàng sử dụng dịch vụ CTXH trên 8 thực tế. Việt Nam mới chỉ có một số người được đào tạo về CTXH và một vài phòng tư vấn chủ yếu là tư vấn tâm lý có mặt nhân viên CTXH. Những nhân viên này chưa mấy sử dụng các lý thuyết CTXH cho các khách hàng của mình. Trong quá trình xây dựng nghề CTXH tại Việt Nam, việc đầu tiên cần có quyết định chính trị coi CTXH là một nghề chính thức. Song, việc có được quyết định này cũng cần có băng chứng về nhu cầu cần dịch vụ CTXH trong nhân dân, cần có khách hàng cho những người hành nghề CTXH. Bệnh viện là nơi nhân viên CTXH có thể hành nghề CTX$H với bệnh nhân, song cũng chưa có thử nghiệm để nói lên sự cần thiết này và cũng chưa có quyết tâm chính trị cho việc này. Ngành lao động thương binh và xã hội muốn coi nhân viên CTXH là nhân lực cho ngành này. Song, các hoạt động truyền thống của ngành và kiến thức cũng như kỹ năng CTXH có mối quan hệ thế nào cũng chưa chứng minh được rõ ràng. Vấn đề ở đây là làm thế nào để tri thức và kỹ năng CTXH truyền thống tại các quốc gia có phát triển nghề này có chỗ đứng ở Việt Nam do nhu cầu loại dịch vụ này của Việt Nam Bài 2: Ưng dụng lý thuyết cho thực hành CTXH Quan hệ giữa lý thuyết và thực hành Phần nói về quá trình hình thành lý thuyết CTXH cho thấy lý thuyết CTXH hướng dẫn thực hành CTXH và ngược lại thực hành CTXH góp phần xây dựng lý thuyết CTXH. Mối quan hệ giữa lý thuyết và thực hành CTXH được coi là mối quan hệ tất yếu vì lý thuyết CTXH là lý thuyết thực hành. Mối quan hệ giữa lý thuyết và thực hành CTXH xoay quanh bốn đặc tính sau: 1. Tính ứng dụng (applicability): lý thuyết ứng dụng trong thực hành có được không, có hiệu quả không 2. Tính thích hợp (relevance): thực hành có thể làm thay đổi lý thuyết không và ngược lại 9 3. Tính hạch toán (accountability): lý thuyết có hỗ trợ cơ quan dịch vụ hay nhân viên thực hành đo đếm được hoạt động và hiệu quả của mình không 4. Tính pháp lý (legitimation): CTXH có vi trị và giá trị xã hội không Nghề CTXH có đặc điểm là mọi người trưởng thành ai cũng có ít nhiều tri thức và kinh nghiệm ứng dụng lý thuyết (không chính thức) CTXH, ai cũng biết làm CTXH. Song, CTXH chuyên nghiệp đòi hỏi sự hiểu biết về lý thuyết CTXH chính thức, là lý thuyêt được những nhà chuyên môn thảo luận và chấp nhận, được thử nghiệm và đúc kết thành kinh nghiệm. Trong việc ứng dụng lý thuyết CTXH chính thức, nhân viên CTXH tiếp xúc với khách hàng trong bối cảnh của một cơ quan cung ứng dịch vụ CTXH. Thật ra cái khó nhất đối với nhân viên CTXH chuyên nghiệp là làm thế nào ứng dụng lý thuyết vào thực hành một cách sáng tạo và linh hoạt. Nhân viên CTXH, khách hàng và cơ quan có tác động ảnh hưởng qua lại với nhau, dĩ nhiên dưới tác động của các hệ thống lơn hơn, của các vòng quan hệ tương tác trong CTXH. Và, như vậy lý thuyết CTXH và thực hành CTXH tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Tác động lẫn nhau bao gồm tác động giữa các mối quan tâm, giữa các quyền lợi vf giữa các quyền lực. Nhân viên CTXH khi ứng dụng lý thuyết trong thực hành rất cần quan tâm đến các tác động này. Do đó nhân viên CTXH phải là nhà khoa học, phải biết kết hợp lồng ghép các ý nghĩa, phải thu nạp dần những điều mình chưa biết nhưng cần cho nghề nghiệp của mình trong quá trình ứng dụng lý thuyết vào thực hành. Nói một cách khác việc ứng dụng này không thể máy móc ma cần sự linh hoạt. Nhân viên CTXH chuyên nghiệp trong quá trình thu góp những kinh nghiệm cho mình phải nhận thức đo đếm được những việc mình làm xem đã đáp ứng được mong muốn của khách hàng chưa, mong muốn của những cơ quan sử dụng mình chưa, mong muốn của những người thầy dạy mình chữa. Chính lý thuyêt giúp cho nhân viên CTXH trong việc nhận định này. Lý thuyết cung cấp hướng dẫn thực hành cho nhân viên CTXH chuyên nghiệp để họ có thể xem cái gì được, cái gì chưa được cần bổ xung. Trong chừng mực nào đó, lý thuyết được coi như định hướng chính trị để nhân viên CTXH nhân định xem việc ứng dụng có cái gì phù hợp, có cái gì chưa phù hợp để; lấy lý thuyết đẻ xem xét đánh giá ngay việc ứng dụng lý thuyết, lấy lý thuyết này để kiểm chứng lý thuyết kia. Nghề CTXH thường được coi là một nghề dịch vụ phục vụ cho giáo dục và Y tế. Song, sự phát triển của CTXH cho thây vai trò của nhân viên 10 CTXH có thể rộn hơn. Vấn đề là nhũng đóng góp của nhân viên CTXH chuyên nghiệp với lý thuyết và thực hành của nó được thừa nhân có tính pháp lý như thế nào. Sự thừa nhân tính pháp lý này bao gồm cả sự thừa nhân chung của xã hội. Chính sự phát triển của lý thuyết CTXH được ứng dụng trong thực tế có thể xây dựng tính pháp lý của nghề CTXH, phát triển vai trò của nhân viên CTXH trong xã hội. Chuyển tải học vấn Chuyển tải học vấn là ứng dụng ý tưởng và tri thức từ một lĩnh vực thực hành này sang một lĩnh vực thực hành khác. Có người còn mở rộng khái niệm này đến mức chuyển tải ý tưởng và tri thức từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác, từ nghề này sang nghề khác, từ truyền thống trí thức này sang truyền thống trí thức khác. Chuyển tải học vấn có thể hiểu là việc xem xét các yếu cầu cho thích nghi và tổ chức ứng dụng cần thiết khi đưa một ý kiến từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. CTXH có những lý thuyết xuất phát từ bản thân ngành học CTXH; thí dụ lý thuyết về nhiệm vụ trung tâm. Song, phần lớn các lý thuyết của CTXH hiện nay xuất phát từ những ngành học khác. Ngành CTXH đã lựa chọn các lý thuyết này, thêu dệt nó và phát triển nó với những ý nghĩ từ bên ngoài, từ những lý tưởng xã hội hay từ những phối cảnh kinh điển của những khoa học liên quan,v.v. Những ý nghĩa và lý thuyết này được đưa vào CTXH thông qua sự tương tác với những nghề nghiệp liên qua như tâm lý học lâm sàng và tư vấn. Thí dụ lý thuyết hệ thống được đưa vào CTXH qua những tài liệu viết về tâm lý học và lý thuyết về quản lý. Nói như vậy có nghĩa là lý thuyết CTXH có từ ý tưởng của các thực thể lý thuyết rộng lớn hơn, và ngược lại CTXH cũng có thể đóng góp ngược lại cho các thực thể lý thuyết rộng lớn hơn này. Người ta cho rằng có hai hoàn cảnh dẫn nhân viên CTXH đến việc chuyển tải những ý nghĩa và lý thuyết từ những lý thuyết bao quát hơn trong thực hành CTXH. Thứ nhất xuất phát từ định