Mạc Thái Tổ (1483 ? - 22/8 âm lịch năm 1541), người sáng lập ra nhà Mạc,
kéo dài từ năm 1527 đến năm 1592, trong giai đoạn lịch sử của Việt Nam mà người ta
gọi là thời kỳ Lê-Mạc phân tranh hay thời kỳ Nam-Bắc triều của Đại Việt.
Nhà Mạc do ông dựng lên không những chỉ phải lo khôi phục sơn hà xã tắc đã
suy kiệt từ cuối thời kỳ Lê sơ mà còn phải chống chọi lại với phản ứng rất mãnh liệt
của phần lớn các cựu thần nhà Hậu Lê với tư tưởng trung quân của Nho giáo, chẳng
hạn Cương mục có viết Đăng Dung sợ lòng người tưởng nhớ nhà Lê cũ, sinh ra biến
cố, nên phàm việc đều noi theo chế độ triều Lê, do vậy các sửa đổi của ông về mọi
quy chế trong nước là không nhiều.
12 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mạc Thái Tổ - Mạc Đăng Dung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mạc Thái Tổ - Mạc Đăng Dung
Mạc Thái Tổ (1483 ? - 22/8 âm lịch năm 1541), người sáng lập ra nhà Mạc,
kéo dài từ năm 1527 đến năm 1592, trong giai đoạn lịch sử của Việt Nam mà người ta
gọi là thời kỳ Lê-Mạc phân tranh hay thời kỳ Nam-Bắc triều của Đại Việt.
Nhà Mạc do ông dựng lên không những chỉ phải lo khôi phục sơn hà xã tắc đã
suy kiệt từ cuối thời kỳ Lê sơ mà còn phải chống chọi lại với phản ứng rất mãnh liệt
của phần lớn các cựu thần nhà Hậu Lê với tư tưởng trung quân của Nho giáo, chẳng
hạn Cương mục có viết Đăng Dung sợ lòng người tưởng nhớ nhà Lê cũ, sinh ra biến
cố, nên phàm việc đều noi theo chế độ triều Lê, do vậy các sửa đổi của ông về mọi
quy chế trong nước là không nhiều.
Thân thế
Ông tên thật là Mạc Đăng Dung , sinh giờ ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý
Mão (1483). Ông là người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy,
thành phố Hải Phòng).
Cho đến nay trong sử sách và giới nghiên cứu tồn tại 3 ý kiến khác nhau về
nguồn gốc của Mạc Đăng Dung:
Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi thời Trần. Theo
Toàn thư và Đại Việt thông sử, Mạc Đăng Dung là người xã Cao Đôi (Đông Cao theo
Cương mục), huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách,
tỉnh Hải Dương), tổ tiên ông là Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên triều Trần. Đĩnh Chi sinh
ra Cao (Dao theo Cương mục), Cao sinh ra Thúy (Túy theo Cương mục), Thúy sinh ra
Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà, Hải Dương rồi sinh ra Bình, Bình lại
dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Hịch, Mạc Hịch
lấy con gái Đặng Xuân là Đặng Thị Hiếu người cùng làng Cổ Trai sinh được ba con
trai, con trưởng là Đăng Dung, con thứ là Đăng Đốc (Đốc Tín), con út là Đăng Quyết.
Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi mà Mạc Đĩnh Chi lại là cháu
5 đời của trạng nguyên Mạc Hiển Tích thời Lý Nhân Tông (1086), tức là Mạc Đăng
Dung là cháu 11 đời của Mạc Hiển Tích. Người theo quan điểm này là Vũ Phương Đề
trong Công dư tiệp ký[2]. Sau đó Đặng Đình Lang cũng theo thuyết này và bổ sung
thêm rằng gốc gác họ Mạc từ Cơ Chất Khiết - hậu huệ nhàChubên Trung Quốc. Sau
khi nhàChumất, Cơ Chất Khiết làm quan cho nhà Hán, được ban họ Mạc và phong ở
Trịnh ấp. Sau này con cháu di cư xuống phía nam rồi tới Đại Việt[3].
Mạc Đăng Dung là dòng dõi người tộc Đãn ở ven biển từ Phúc Kiến (Trung
Quốc) trở xuống, đã Việt hóa ở phươngNam. Đây là quan điểm của Trần Quốc Vượng
cho rằng: gia phả thực của họ Mạc còn chôn trong mộ và họ Mạc là người Đãn
man[4].
Trong 3 luồng ý kiến trên, luồng ý kiến thứ nhất được đông đảo các nhà nghiên
cứu chấp nhận vì khoảng cách thế thứ từ Mạc Đĩnh Chi tới Mạc Đăng Dung là hợp lý
(7 đời trong 200 năm). Thuyết thứ hai được đánh giá là không hợp lý khi nối kết Mạc
Đĩnh Chi và Mạc Hiển Tích: các nhà nghiên cứu cho rằng khoảng cách 5 đời trong
220 năm là không hợp lý về thế thứ[5]. Giả thuyết của Đặng Đình Lang đưa ra năm
1959 được xem là đi quá xa và không rõ căn cứ vào đâu[6]. Riêng giáo sư Trần Quốc
Vượng phản bác cả 2 ý kiến trên mà cho rằng: Mạc Đăng Dung nhận mình là con
cháu Mạc Đĩnh Chi chỉ là "thấy người sang bắt quàng làm họ"[4].
Quyền thần nhà Lê
Mạc Đăng Dung hồi nhỏ làm nghề đánh cá, lớn lên có sức khoẻ, đỗ lực sĩ xuất
thân, được sung vào quân túc vệ của nhà Hậu Lê đời Lê Uy Mục.
Năm 1508, Đoan Khánh năm thứ 4, vua Lê Uy Mục giao cho ông làm Thiên vũ
vệ đô chỉ huy sứ ty đô chỉ huy sứ. Năm 1511, Hồng Thuận năm thứ 3, vua Lê Tương
Dực thăng ông làm Đô chỉ huy sứ tước Vũ Xuyên bá.
Triều Lê suy yếu, các tướng chia bè phái đánh lẫn nhau, bên ngoài nông dân
nổi dậy khởi nghĩa, mạnh nhất là lực lượng Trần Cảo. Cảo đánh chiếm kinh thành
Thăng Long, các tướng gác mâu thuẫn cùng đánh dẹp. Đến khi Trần Cảo rút đi, các
tướng lại chia bè phái đánh nhau. Nguyễn Hoằng Dụ (con Nguyễn Văn Lang) đánh
nhau với Trịnh Tuy. Tuy thua chạy về Tây Đô (Thanh Hoá). Trần Chân về phe với
Tuy đánh đuổi Hoằng Dụ, nắm lấy quyền trong triều.
Mạc Đăng Dung thấy uy quyền của Chân lớn liền kêt thông gia với Chân, cho
con gái Chân lấy con trai cả mình là Mạc Đăng Doanh.
Năm 1518, Lê Chiêu Tông nghe lời gièm pha, sợ quy quyền của Trần Chân nên
sai người giết Chân. Thủ hạ của Chân là Nguyễn Kính nổi loạn. Bấy giờ Đăng Dung
đang trấn thủ Hải Dương. Chiêu Tông bèn triệu Mạc Đăng Dung và Nguyễn Hoằng
Dụ về cứu giá. Hoằng Dụ đánh bị thua chạy về Thanh Hóa rồi chết. Đăng Dung một
mình nhân cầm quân dẹp loạn mà nắm hết quyền bính.
Năm 1521, Mạc Đăng Dung chiêu hàng được Nguyễn Kính, dẹp được Trần
Cung (con Trần Cảo), quyền thế át cả Chiêu Tông. Chiêu Tông sợ chạy ra ngoài gọi
quân Cần vương. Đăng Dung bèn lập em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức là Lê
Cung Hoàng, tuyên bố phế truất Chiêu Tông.
Vua Chiêu Tông được các tướng Hà Phi Chuẩn, Đàm Thận Huy, Lê Đình Tú
về cứu, thanh thế rất lớn. Nhưng sau đó Trịnh Tuy ở Thanh Hóa ra cần vương, các
tướng bất hoà. Trịnh Tuy tranh công mang Chiêu Tông vào Thanh Hoá, ra lệnh các
đạo bãi binh, từ đó các tướng không theo Chiêu Tông nữa.
Năm 1523, Mạc Đăng Dung nhân phe Chiêu Tông yếu thế, điều quân đánh
Thanh Hoá. Năm 1524, Trịnh Tuy thua trận bỏ chạy rồi chết. Đăng Dung được phong
làm Bình chương quân quốc trọng sự thái phó Nhân quốc công. Năm 1525, Mạc Đăng
Dung bắt được Chiêu Tông mang về Thăng Long và giết chết năm 1526.
Năm 1527, ông được phong làm An Hưng Vương. Các đối thủ đều bị dẹp yên,
không còn ai ngăn trở, tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất Cung Hoàng lên
ngôi, lập ra nhà Mạc. Chiếu nhường ngôi của Lê Cung Hoàng cho Mạc Đăng Dung có
đoạn viết: "Từ cuối đời Hồng Thuận gặp lúc Quốc gia nhiều nạn, Trịnh trung lập kẻ
nghịch lên ngôi, lòng người lìa tan, trời cũng không giúp, lúc ấy thiên hạ đã không
phải của nhà Lê vậy. Ta (Cung đế) bạc đức nối ngôi không thể gánh nổi, mệnh trời và
lòng người hướng về người có đức. Vậy nay Thái Sư An Hưng Vương Mạc Đăng
Dung là người trí đức, tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp, bốn
phương đều phục, bên trong trị nước thiên hạ yên vui, công đức rất lớn lao, trời người
đều qui phục, nay theo lẽ phải nhường ngôi cho..."
Làm vua
Ông lên làm vua từ ngày 15 tháng 6 âm lịch năm 1527 đến hết năm 1529 với
niên hiệu Minh Đức. Sau đó, học theo nhà Trần, nhường ngôi cho con là Mạc Đăng
Doanh (tức Mạc Thái Tông) để lui về làm Thái thượng hoàng.
Do thời gian làm vua rất ngắn, không để lại nhiều dấu ấn gì ngoài một số việc
như: cho đúc tiền Thông Bảo,truy tôn Mạc Đĩnh Chi là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn
Hoàng Đế,xây cung điện ở Cổ Trai (nay thuộc Kiến Thụy, Hải Phòng),lấy Hải Dương
làm Dương Kinh,tổ chức thi tuyển chọn người có tài (thi Hội năm 1529), cũng như
sửa định binh chế, điền chế, lộc chế và đặt các vệ-phủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở
thuộc, hiệu ty, tên quan và số lại viên, số người, số lính của các nha môn, nhưng vẫn
phỏng theo quan chế triều trước với bổ sung không đáng kể nên người ta biết đến ông
phần nhiều như là một người tiếm ngôi, mặc dù trong giai đoạn từ đời Lê Uy Mục đến
đời Lê Cung Hoàng thì nhà Hậu Lê đã cực kỳ suy tàn, khởi nghĩa và nổi loạn nổi lên ở
nhiều nơi, triều chính thối nát dẫn đến việc các ông vua này phải dựa vào thế lực ngày
càng tăng của Mạc Đăng Dung nhằm duy trì quyền lực đã gần như không còn của
mình và cuối cùng là việc phải nhường ngôi cho ông.
Năm 1540, Mạc Thái Tông mất, Đăng Dung lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên
ngôi, tức là Mạc Hiến Tông.
Quan hệ với nhà Minh
Các bộ chính sử thời phong kiến của ViệtNamnhư Toàn thư, Cương mục đều
viết về hai sự kiện Mạc Đăng Dung cắt đất cho nhà Minh.
Năm 1528
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
Năm 1528, cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người
bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận
Trong Cương mục cũng đặt vấn đề nghi ngờ về sự việc năm 1528 mà Toàn thư
đã chép. Cũng nên lưu ý rằng Toàn thư là do các quần thần nhà Hậu Lê viết ra nên có
thể không chính xác. Các sử gia ngày nay xác định rõ rằng hai châu Quy Hoá và
Thuận An đã mất sang tay nhà Tống từ thời nhà Lý, do hai thủ lĩnh Nùng Trí Hội và
Nùng Trí Cao nộp cho Tống[7].
Đầu hàng năm 1540
Cũng theo Toàn thư:
[năm] 1540...tháng 11, Mạc Đăng Dung... qua trấn Nam Quan... phủ phục
trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách
về đất đai, quân dân và quan chức cả nước...dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm,
Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc
vào Khâm Châu...Lại sai bọn...mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh (Sử ký) nhưng về
việc này có mâu thuẫn với sách Khâm Châu chí của nhà Thanh và Quảng Yên sách.
Về sự việc cắt đất này, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Việc cắt đất bị nhiều sử
gia về sau lên án gay gắt, nhưng cũng có ý kiến cho rằng ông làm thế là khôn khéo
nhất, vì cùng một lúc không thể chia sẻ lực lượng ra để chống lại hai thế lực: nhà
Minh ở phía bắc, liên minh Lê - Nguyễn ở phía nam[8][9].
Trên thực tế, điều này (dù có hay không) đã ngăn không cho nhà Minh đem
quân vào Đại Việt và kể từ sau khi ông mất thì cháu ông, Mạc Phúc Hải vẫn là người
có toàn quyền tối cao điều hành đất nước từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra.
Đến thế kỷ 19, học giả Nguyễn Văn Siêu, tác giả sách Phương Đình Dư Địa
chí, đã thay đổi cách nhìn nhận về vấn đề này. Sau khi khảo cứu các sách địa lý Trung
Quốc và ViệtNam, Nguyễn Văn Siêu kết luận[10]:
Mấy động Như Tích thuộc châu Vĩnh An mới có từ niên hiệu Thuận Thiên.
Nhà Mạc trả lại cho nhà Minh đất cũ đã lấn, không phải là cắt đất để đút lót vậy.
Các sử gia ngày nay có quan điểm thống nhất với Nguyễn Văn Siêu[11].
Tác giả Trần Gia Phụng trong bài viết: "Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử"
có đoạn bình luận xác đáng về sự kiện đầu hàng nhà Minh của Mạc Thái Tổ:
"Năm 1533,... Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn 10 người đi đường
biển từ Chiêm Thành theo thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu nhà
Minh xuất quân đánh nhà Mạc. Năm 1536 một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên
yêu cầu nhà Minh đánh họ Mạc.
Hành động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó
có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa
đến kết quả cụ thể là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý
quân vụ đem binh mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại, trong thế yếu, muốn
tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần
nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương
Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã lên làm thái thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và
chấp nhận hy sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự
nhẫn nhục của Mạc Thái Tổ,... Đại Việt trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng
trong thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai từ Lạng Sơn trở
xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai cũng bảo Mạc Đăng
Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết
không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ,
nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng này, Mạc Đăng
Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng Hàn Tín khi
nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là một gương nhẫn
nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia sẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc
Đăng Dung. Mạc Đăng Dung rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về
nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541."
Đi xa hơn nữa, tác giả còn so sánh hành động này của Mạc Đăng Dung với vua
Lê sau ngày trung hưng về Thăng Long:
...(Theo Việt sử Thông giám cương mục,) "sau khi trở về Thăng Long, năm
1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn của nhà
Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện nhà Minh khám xét, nhưng quan nhà Minh
không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi
đến nơi đợi lâu quá không được gặp quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau
(1597) lên một lần nữa mới được hội kiến. Sự kiện nầy chẳng khá gì hơn việc Mạc
Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540..."
Học giả Trần Trọng Kim thì lên án Mạc Đăng Dung như sau[12]:
"Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một
người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà
dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái
danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa
một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình và một
nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ."
Qua đời
Năm 1541, thượng hoàng Mạc Đăng Dung qua đời, thọ 59 tuổi. Trước khi mất
ông có để lại di chúc không làm đàn chay cúng Phật và khuyên Mạc Phúc Hải phải
nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng.
Đời sau nhìn nhận
Mạc Đăng Dung là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong
lịch sử ViệtNam. Những nhân vật kiểu như Mạc Đăng Dung (hay Trần Thủ Độ và Hồ
Quý Ly thường xuất hiện trong lịch sử Trung Hoa hơn là ViệtNam. Sử sách triều Lê-
Trịnh và triều Nguyễn sau này vốn luôn lên án Mạc Đăng Dung là “thoán nghịch” hay
“nghịch thần” đồng thời coi nhà Mạc là “ngụy triều” nhưng cũng phải ghi lại một thực
tế lịch sử khi Mạc Đăng Dung lên ngôi là “bấy giờ thần dân trong nước đều theo Mạc
Đăng Dung, đến đón vào kinh sư” (Đại Việt sử ký toàn thư, tr.118) hay “lúc này thần
dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô” (Đại Việt thông sử,
tr.264). Nhưng dù có khen chê hay định đoạt công tội của Mạc Đăng Dung thì người
ta cũng phải thừa nhận ông là một người có tài thao lược, trí dũng hơn người (chỉ
trong khoảng 10 năm đã dẹp yên hầu hết các cuộc nổi loạn của nhiều phe phái, thế lực
cát cứ khắp nước), là một tay anh hùng lập thân trong thời đại loạn như Đinh Tiên
Hoàng thuở trước (xuất thân hàn vi từ tay không mà dựng nên đế nghiệp), là người có
sức thu phục nhân tâm lớn (thu phục đại bộ phận lòng dân trong nước, chiêu nạp dưới
trướng nhiều tướng lĩnh có tài và trung thành như Nguyễn Kính, Vũ Hộ, Phạm Tử
Nghi...), là người dám hy sinh cả danh dự cá nhân vì đại cục quốc gia (đây là hành
động thường thấy trong lịch sử Trung Quốc nhiều thời kỳ nhưng gần như không thấy
gặp trong lịch sử Việt Nam ở những thời điểm then chốt).
Một điều nữa khiến Mạc Đăng Dung được các sử gia sau này đánh giá cao là ở
cách đối nhân xử thế của ông. Khi Mạc Đăng Dung phế bỏ nhà Lê sơ để lên ngôi, ông
đã không thi hành một cuộc tàn sát hay tắm máu nào đối với con cháu nhà Lê và
những người trung thành với cựu triều bởi những cuộc thanh trừng có hệ thống đã
từng xảy ra khi nhà Trần lên thay nhà Lý, nhà Hồ lên thay nhà Trần trước đó. Đối với
những di sản kiến trúc-văn hóa của nhà Lê sơ tại Thăng Long và Thanh Hóa, Mạc
Đăng Dung cũng không xâm phạm hay tàn phá, mà còn cho tu bổ lại các công trình
như nhà Quốc Tử Giám ở Thăng Long và lăng mộ các đời vua Lê tại Lam Kinh
(Thanh Hóa). Đây cũng được coi là việc làm hiếm thấy trong lịch sử các triều đại
phong kiến Việt Nam bởi triều đại mới lên thường xóa bỏ hay phá hủy những gì được
coi là “tàn tích” của triều đại cũ cho dù nhiều “tàn tích” trong số đó có ý nghĩa tiến bộ
về lịch sử đi chăng nữa. Điểm “đặc biệt” cuối cùng trong cách hành xử của Mạc Đăng
Dung là ở khả năng dùng người và trọng đãi nhân tài của ông. Một bộ phận lớn quan
lại, đại thần của triều cũ (Lê sơ) vẫn được tin dùng và trao giữ những chức vụ quan
trọng dưới triều Mạc. Nhiều nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng sở dĩ Mạc Đăng Dung
có cách hành xử linh hoạt, cởi mở như vậy là do ông xuất thân ở vùng biển nơi cư dân
có cái nhìn thực tế, hướng ngoại và ít bị ràng buộc bởi những tư tưởng bảo thủ truyền
thống như những cư dân trong nội địa vốn chủ yếu sống bằng nông nghiệp vào thời
đó. Bởi vậy mà cho tới cuối thời Lê Trung Hưng, trong sách Vũ trung tùy bút tác giả
Phạm Đình Hổ đã viết: “cái đức chính của thời Minh Đức (niên hiệu của Mạc Thái
Tổ) và Đại Chính (niên hiệu của Mạc Thái Tông) nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng
người chưa quên. Vậy nên thời vận đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc
vẫn chưa hết...”
Định nam đao
Thanh long đao của Mạc Thái Tổ (còn được gọi là Định nam đao) được nhiều
nhà nghiên cứu lịch sử và khảo cổ ở ViệtNamkhẳng định là binh khí duy nhất của một
danh tướng cũng như một vị vua dưới thời phong kiến ViệtNamvẫn còn lưu lại đến
ngày nay. Năm 2010, thanh long đao này đã được con cháu họ Phạm gốc Mạc ở Nam
Định đưa về lưu thờ và trưng bày ở Khu tưởng niệm Vương triều Mạc tại xã Ngũ
Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng (nơi là trung tâm của Dương Kinh thời
Mạc ở thế kỷ 16). Trải qua hơn 500 năm tuổi và 90 năm bị ăn mòn do chôn giấu dưới
lòng đất nhưng cơ bản thanh long đao vẫn giữ được hình dạng và kích thước không
khác mấy lúc ban đầu dù bị sứt mẻ và gỉ sét ở nhiều chỗ.
Năm 1986, nhà sử học Lê Xuân Quang (người Nam Trực, Nam Định), hội viên
Hội Khoa học lịch sử Việt Nam trong quá trình tìm hiểu về hậu duệ vương triều Mạc
trên đất Hà Nam Ninh cũng là nhà nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam tìm hiểu chi tiết về
thanh long đao. Ông đã xin phép con cháu họ Phạm gốc Mạc được trực tiếp cân đong,
đo đếm một cách tỉ mẩn thanh long đao và ghi lại trong bản báo cáo như sau: “Thanh
long đao của Mạc Thái Tổ dài 2,55m, cân nặng 25,6kg, lưỡi đao dài 0,95m, cán đao
bằng sắt rỗng dài 1,60m. Một hình đầu rồng bằng đồng thau che kín phần cuối lưỡi
đao tiếp vào cán đao thay thế cho khâu đao (trông như thể đầu rồng đang há miệng
nuốt lấy lưỡi đao), chỗ hình đầu rồng có "cá" chốt chặt lưỡi đao vào cán đao”. Nhiều
chuyên gia về binh khí cổ ở ViệtNamcho rằng thanh long đao (Định nam đao của Mạc
Thái Tổ) lúc ban đầu khi chưa bị gỉ sét có thể cân nặng không dưới 30 kg. Thanh đại
đao này cũng được xem là một trong hai thanh long đao của một vị quân vương ở
châu Á còn tồn tại đến nay và được lưu thờ là vật thái bảo. Thanh long đao còn lại là
của Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn), vua sáng lập ra nhà Bắc Tống. Cũng có nhiều
đánh giá khẳng định thanh Định nam đao của Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) nặng
hơn hai thanh long đao của Triệu Khuông Dẫn và của Ngô Tam Quế (hiện được trưng
bày tại bảo tàng tỉnh Vân Nam ở thành phố Côn Minh của Trung Quốc) đồng thời cân
nặng không kém mấy so với thanh long đao yển nguyệt của Quan Vũ thời Tam Quốc
(theo tác giả La Quán Trung trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa thì long đao yển
nguyệt của Quan Vũ cân nặng 82 cân thời Hán tức là khoảng 37 kg thời nay).