Nguyễn Duy “lạ hoá” lục bát

1. Đặt vấn đề “Lạ hoá” là toàn bộ những thủ pháp trong nghệ thuật (nghịch dị, nghịch lý. . . ) dùng để đạt tới một kết quả nghệ thuật, theo đó, hiện tượng được miêu tả không phải như ta đã quen biết, hiển nhiên mà như một cái gì đó “mới mẻ”, “chưa quen”, “khác lạ”. Khái niệm “hiệu quả lạ hoá” lần đầu tiên được Bertolt Brecht đưa vào mỹ học căn cứ trên lý thuyết và thực tiễn sáng tác trong lĩnh vực sân khấu của ông. Theo B. Brếch “lạ hoá” gây nên ở chủ thể tiếp nhận sự “ngạc nhiên và hiếu kỳ” trước một góc nhìn mới làm nảy sinh một góc độ tiếp nhận tích cực đối với cái thực tại được “lạ hoá” kia. Khái niệm cũng đã được các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Hình thức Nga những năm 20 của thế kỷ trước như: Sơclôpxki, Iaaibixki, Vinôcua, Iacôpxôn, Tưnanôp. . . tiếp nhận. Những nhà nghiên cứu này coi “lạ hoá” như một nguyên tắc nghệ thuật có thể thể hiện trong mọi cấp độ của cấu trúc nghệ thuật, có tác dụng phá vỡ tính tự động máy móc của sự cảm thụ bằng cách tạo ra một “cái nhìn mới” - “khác lạ” - đối với sự vật và hiện tượng quen thuộc chứ không phải là “nhận ra” cái đã biết, tức là phá vỡ những “khuôn hình” đã quen để người ta có thể nhận ra các ý nghĩa mới của sự vật và nhân sinh. Căn cứ theo hệ thống quan điểm trên, chúng tôi cho rằng nên hiểu khái niệm “lạ hoá” ở cả hai góc độ nội dung và hình thức. Hiệu quả thẩm mỹ do “lạ hoá” mang lại không chỉ là vấn đề cách tân hình thức nghệ thuật mà còn tạo ra “cách nhìn mới”, “cách tiếp nhận mới” đối với ý nghĩa của sự vật, hiện tượng khách quan. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa thủ pháp “lạ hoá” sẽ làm cho bản chất đối tượng bị thay đổi hoàn toàn mà là giúp người đọc “nhận ra” những cái đã biết theo một cách mới, khác với cách thông thường quen thuộc. Nghĩa là nghệ sĩ sẽ sáng tạo nên cái mới trên cơ sở những cái vốn gần gũi, quen thuộc.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 137 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyễn Duy “lạ hoá” lục bát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci. Science., 2010, Vol. 55, No. 7, pp. 30-37 NGUYỄN DUY “LẠ HOÁ” LỤC BÁT Hỏa Diệu Thúy Đại học Hồng Đức 1. Đặt vấn đề “Lạ hoá” là toàn bộ những thủ pháp trong nghệ thuật (nghịch dị, nghịch lý. . . ) dùng để đạt tới một kết quả nghệ thuật, theo đó, hiện tượng được miêu tả không phải như ta đã quen biết, hiển nhiên mà như một cái gì đó “mới mẻ”, “chưa quen”, “khác lạ”. Khái niệm “hiệu quả lạ hoá” lần đầu tiên được Bertolt Brecht đưa vào mỹ học căn cứ trên lý thuyết và thực tiễn sáng tác trong lĩnh vực sân khấu của ông. Theo B. Brếch “lạ hoá” gây nên ở chủ thể tiếp nhận sự “ngạc nhiên và hiếu kỳ” trước một góc nhìn mới làm nảy sinh một góc độ tiếp nhận tích cực đối với cái thực tại được “lạ hoá” kia. Khái niệm cũng đã được các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Hình thức Nga những năm 20 của thế kỷ trước như: Sơclôpxki, Iaaibixki, Vinôcua, Iacôpxôn, Tưnanôp. . . tiếp nhận. Những nhà nghiên cứu này coi “lạ hoá” như một nguyên tắc nghệ thuật có thể thể hiện trong mọi cấp độ của cấu trúc nghệ thuật, có tác dụng phá vỡ tính tự động máy móc của sự cảm thụ bằng cách tạo ra một “cái nhìn mới” - “khác lạ” - đối với sự vật và hiện tượng quen thuộc chứ không phải là “nhận ra” cái đã biết, tức là phá vỡ những “khuôn hình” đã quen để người ta có thể nhận ra các ý nghĩa mới của sự vật và nhân sinh. Căn cứ theo hệ thống quan điểm trên, chúng tôi cho rằng nên hiểu khái niệm “lạ hoá” ở cả hai góc độ nội dung và hình thức. Hiệu quả thẩm mỹ do “lạ hoá” mang lại không chỉ là vấn đề cách tân hình thức nghệ thuật mà còn tạo ra “cách nhìn mới”, “cách tiếp nhận mới” đối với ý nghĩa của sự vật, hiện tượng khách quan. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa thủ pháp “lạ hoá” sẽ làm cho bản chất đối tượng bị thay đổi hoàn toàn mà là giúp người đọc “nhận ra” những cái đã biết theo một cách mới, khác với cách thông thường quen thuộc. Nghĩa là nghệ sĩ sẽ sáng tạo nên cái mới trên cơ sở những cái vốn gần gũi, quen thuộc. Văn chương là lãnh địa của sáng tạo. Ai đó đã nói: trên con đường sự nghiệp nếu ta không tiến tức là đang lùi. Ý tưởng ấy có lẽ hợp hơn cả với sáng tạo nghệ thuật trong đó có văn chương. Lục bát vẫn được coi là thể loại “xưa như trái đất”. 30 Nguyễn Duy “lạ hóa” lục bát Đã thế, thể loại này lại đã hiển hiện thành “người đẹp hoàn thiện hoàn mĩ” là ca dao. Để tạo ra sản phẩm “nghiêng nước nghiêng thành” khác quả không dễ. Hoặc là lặp lại vẻ đẹp của “nàng”, nhưng nếu được thế cũng coi như đã thành công. Chỉ sợ không tạo được sắc vẻ của Tây Thi mà lại là thần sắc của Đông Thi thôi. Nhưng, như có mê hoặc, đã bước vào sân thơ, không thể không chơi lục bát. Nguyễn Duy được coi là “tay” lục bát “lành nghề”. Thi sĩ không chỉ biết chơi ngón nghề cũ và chơi rất điệu nghệ. Người đọc từng bị mê hoặc bởi giọng lục bát đằm thắm, tha thiết: “Cái cò. . . sung chát đào chua . . . / câu ca mẹ hát gió đưa về trời, ta đi trọn kiếp con người/ cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”. Lại vừa gặp một Nguyễn Duy tân kỳ đến táo tợn: “Bia lon thỗn thện người lon / ễnh ềnh ệch hỏn hòn hon thùi lùi”, hoặc “Mải lêu lổng bỗng nhiên rằm/ một ta chơi một tròn trăng xứ người”. Hai cung bậc ấy hoà quyện tạo cho lục bát Nguyễn Duy diện mạo mới, sắc điệu mới: quen mà lạ, lạ mà quen, truyền thống mà vẫn tân kỳ, hiện đại mà không mất đi hồn cốt dân tộc. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. “Lạ hoá” lục bát ở phương diện thi liệu 2.1.1. Bổ sung nguồn thi liệu cho lục bát từ đời sống “dân sinh” hiện đại Nguồn mạch thi liệu quen thuộc của lục bát xưa nay vẫn luôn gắn với những hình ảnh của làng quê Việt Nam truyền thống như cây đa, bến nước, ruộng đồng cò bay thẳng cánh, là mẹ với áo nâu sờn bạc và em khuya sớm tần tảo v.v... Những cảnh và người ấy đã đi vào tâm khảm người Việt, nuôi dưỡng và góp phần tạo nên cốt cách Việt Nam. Nguyễn Duy có duyên với lục bắt ngay từ những sáng tác đầu tay. Có lẽ khi trao giải cho chùm lục bát gửi từ chiến trường ra dưới một cái tên “lạ hoắc”, ban tổ chức đã nhận thấy tín hiệu tài năng này: Thắng rồi trận đánh thọc sâu/ lại về với mái tăng – bầu trời vuông (Bầu trời vuông), Tre xanh/ xanh tự bao giờ/ chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh. . . (Tre Việt Nam). Tuy nhiên, cây bút mê lục bát này đã không chịu dừng ở những lối mòn quen thuộc mà luôn tìm cách làm mới thể thơ hoàn thiện mang cốt cách cổ điển này. Và một trong những cách thức hiệu quả Nguyễn Duy làm cho lục bát có thêm nguồn sinh khí mới ấy là bổ sung cho lục bát nguồn thi liệu từ đời sống dân sinh hiện đại. Vì vậy, cạnh những “hơi ấm ổ rơm”, “về đồng”, “mắt na”, “mắt nhãn”, “rau muối”, “thuốc lào” v.v... còn có cả những “cơm bụi”, chuyện “bao cấp thơ”, “gặp ma”, “xẩm ngọng”, thậm chí cả chuyện “si đa”. Và đây nữa, lục bát về những vùng đất xa xôi tận xứ người: Saint Louis, Texas, Boston, New York, Washington v.v. . . 31 Hỏa Diệu Thúy Thế giới trong lục bát Nguyễn Duy vừa trong trẻo hồn nhiên nét hương đồng gió nội, vừa bụi bặm, gân guốc, ồn ào của đường phố, vỉa hè; vừa sâu lắng, mơ màng vừa trẻ trung, lãng tử của một kẻ ưa khám phá, thích hiện sinh: Đừng chê anh khoái bụi đời /bụi dân sinh ấy bụi người đấy em /xin nghe anh nói cực nghiêm/linh hồn cát bụi ở miền trong veo... (Cơm bụi ca). Một tuyên ngôn của Nguyễn Duy về quan điểm sống, quan điểm nhân sinh và về cả quan điểm nghệ thuật chăng? Trong hình tượng “bụi đời”, “bụi dân sinh” kia chứa đựng quan niệm triết lý mang tư tưởng thời đại: “Những gì thuộc về con người đều không xa lạ đối với tôi” (C.Max). Tuy nhiên, ngay cả khi Nguyễn Duy “hiện sinh” nhất, ta vẫn thấy sự rạch ròi, dứt khoát của thi sĩ trong sự chọn lựa chuẩn mực: linh hồn cát bụi ở miền trong veo. Vững vàng trong quan niệm tư tưởng ấy, lục bát Nguyễn Duy vào tận những hang cùng ngõ hẻm để chứng kiến, để trải nghiệm cuộc sống dân sinh thời hiện đại. Này đây chuyện “Liền anh đi chợ”, chuyện “Thi sĩ đi buôn”, “Thi sĩ làm quan”, chuyện “Hoa hậu vườn”, chuyện “Du học”, hay chuyện lang thang dọc ngang chu du nơi xứ người v.v. . . Có cảm giác lục bát Nguyễn Duy giống như một thứ phương tiện thông tin đa dụng có thể phát đi tất cả những hình ảnh, âm thanh, màu sắc mà chủ nhân của nó thâu bắt được. Điều đáng lưu ý là, phương tiện ấy có độ phân giải rất cao: Nhong nhong ngựa ông lên trời đánh đu mấy gã cao bồi chăn mây vợ trời trắng nõn múa may cúi trông miền hạ thương bầy bò hoang (TEXAS, 16.6.1995) Đọc những câu thơ trên, mấy ai không nhận ra những nét đặc thù của miền viễn Tây nước Mỹ, bang Texas nổi tiếng với những thảo nguyên rộng lớn và nghề chăn bò. Song cao bồi miền viễn tây nước Mỹ đi vào lục bát mà vẫn không làm mất đi sắc thái của lục bát, bởi Nguyễn Duy đã dân gian hóa chất liệu hiện đại bằng trường liên tưởng ngộ nghĩnh với lối ví von so sánh của ca dao. Nguyễn Duy không ngần ngại để lục bát thở cùng hơi thở của cuộc sống đời thường. Người đọc không còn ngạc nhiên khi thấy cả “xe điện” của xứ San Francisco, vịt giời của Paris, “đấu bò” xứ Feria De Nimes, “anh hùng ngáp vặt”, ngay cả “hải tặc” vùng Địa Trung Hải cũng có mặt trong lục bát. Khám phá thế giới lục bát Nguyễn Duy, thấy rộng lớn quá, xa xôi quá mà cũng gần gũi quá. Biên độ của kho thi liệu lục bát đã được Nguyễn Duy mở rộng tưởng đến vô cùng. Chỉ riêng điều đó, Nguyễn Duy đã làm cho lục bát có thêm sức sống trẻ trung, dồi dào. Thi liệu trong lục bát Nguyễn Duy chính là “cây đời xanh tươi”. 32 Nguyễn Duy “lạ hóa” lục bát 2.1.2. Làm mới những thi liệu đã cũ Không chỉ rất khả quan trong việc bổ sung nguồn thi liệu mới cho lục bát, Nguyễn Duy còn rất thành công trong việc làm mới những thi liệu đã cũ. Có nhiều cách để ông “lạ hóa” kho thi liệu hầu như đã trở thành “cổ điển” này. Nhưng “tai quái” nhất và cũng gây ấn tượng nhất là các chiêu thức: đưa cái nhìn nhiều chiều hoặc cái nhìn “giễu nhại” vào miêu tả, khám phá, khiến sự vật, hiện tượng hiện ra với một hình hài mới, bản chất mới, nhiều khi đối lập với những gì vốn quen biết, tạo ra hiệu ứng thẩm mỹ mới. Hãy xem Nguyễn Duy tái hiện lại chân dung những “nhân vật” một thuở: Kính thưa Thị Nở tuyệt trần Trăng ngồn ngộn trắng khoả thân với người (Kính thưa Thị Nở) Với Thị Mầu: Kính thưa thục nữ Thị Mầu Yêu siêu cỡ đó trước sau mấy người Mấy ai dám chịu dám chơi Dám ai vỗ cái mặt đời như em (Kính thưa Thị Mầu ) Thị Nở, Thị Mầu đã được nhìn bằng một lăng kính khác, góc nhìn khác, góc nhìn bản thể tự nhiên, vì vậy mà Thị Nở vẫn “tuyệt trần” và Thị Mầu vẫn cứ là “thục nữ”. Trong giọng điệu thơ ta thấy thoáng chút giễu nhại, song bên trong vẫn ấm áp sự cảm thông, chia sẻ của một thái độ thẳng thắn và tư duy mới mẻ. Nguyễn Duy còn “lộn trái”, lật ngược những thói quen, những quan niệm, cả những trật tự vẫn được coi là “khuôn vàng thước ngọc”: Bao giờ cho tới ngày xưa yêu như các cụ cho vừa lòng ta cái thời chưa nhiễm Sida yêu lăn yêu lóc la đà đã chưa (Được yêu như thể ca dao) Phiêu bồng dạt ngã Ba Bông đền Hàn đền Thị đền Sòng đền quê 33 Hỏa Diệu Thúy Thần linh nườm nượp trở về Chắp tay lạy thánh tôi mê cô đồng (Đi lễ) Vẫn những lời ru, những cánh cò, vẫn là trăng, là sao, là nắng, là mưa, là gió, là nỗi nhớ, là cánh đồng, là mẹ, là em v.v. . . nhưng vào lục bát Nguyễn Duy mọi thứ bỗng trở nên thoát xác. Nói đúng hơn, mang “hồn” mới, tâm trạng mới, suy tư mới lạ đến bất ngờ. Đó là “Lời ru trong bão”, là “Võng trăng”, là “Bầu trời vuông”, là “Được yêu như thể ca dao” v.v. . . Có lúc thi sĩ hoà trộn thi liệu cũ với thi liệu mới tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ độc đáo, thú vị: Con cò bay lả bay la Bay từ châu thổ bay qua thuỷ triều Con sò, con ốc, con nghêu Ngửa trên bãi biển như trêu con cò. . . (Lời ru con cò biển) Như vậy, ở phương diện thi liệu, Nguyễn Duy đã sáng tác những “bản nhạc” mới cho cây “đàn bầu” lục bát. Và cũng chỉ Nguyễn Duy mới đủ khả năng dùng cây đàn ấy để tấu lên những tân khúc một cách thành công và điệu nghệ đến vậy. 2.2. “Lạ hoá” lục bát ở phương diện cấu trúc câu thơ, nhịp thơ Không chỉ “lạ hóa” nguồn thi liệu, sắc diện mới của lục bát Nguyễn Duy còn được tạo bởi những cách điệu ở phương diện cấu trúc hình thức câu thơ và nhịp điệu thơ. Lục bát Nguyễn Duy có dáng vẻ thật tân kỳ nhưng nhìn kỹ, hóa ra vẫn cứ là lục bát truyền thống: Mai sau mai sau mai sau Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh (Tre Việt Nam) Giống như sự biến ảo trong trò chơi ru bích, dù màu sắc trên bề mặt của khối hình thay đổi như thế nào thì cấu trúc nguyên thể của nó và nguyên tắc chơi vẫn không đổi. Cấu trúc câu và thanh điệu trong lục bát Nguyễn Duy đầy biến ảo, nhưng điệu hồn lục bát thì vẫn còn nguyên. Cách thức mà Nguyễn Duy ưa dùng để tạo ra hình thức mới cho lục bát ấy là phá cách nhịp và phá cách thanh điệu. 34 Nguyễn Duy “lạ hóa” lục bát 2.2.1. Phá cách nhịp Trong lục bát truyền thống sự kết hợp giữa nhịp và các thanh điệu (bằng – trắc) được quy định chặt chẽ (niêm luật). Chính niêm luật này đã tạo nên sự mềm mại, cân đối và uyển chuyển rất riêng của thể loại thơ này. Song, sự ràng buộc của những quy phạm cổ điển đã không trói nổi kẻ ưa thích sáng tạo này. Đọc lục bát Nguyễn Duy bắt gặp những cách ngắt nhịp và phối điệu rất phóng túng và tung tẩy, điều này khiến cho nhịp điệu trong lục bát Nguyễn Duy đầy sinh khí hiện đại. Lục bát truyền thống lấy nhịp chẵn là phổ biến, là chủ đạo nhưng đến Nguyễn Duy, nhịp chẵn không còn vị trí độc tôn mà song song với nó là sự xuất hiện của nhịp lẻ, đặc biệt là sự kết hợp giữa nhịp lẻ - lẻ - chẵn và lẻ - chẵn - lẻ ở dòng tám. Nhịp ở câu tám giờ đây không còn là công thức quen thuộc như 4/4 hoặc 2/2/2/2 mà thêm vào đó là 3/5, 3/3/2, 3/2/3. . . Chợt rơi lại một nụ cười Và dương rười rượi một trời phía sau . . . Chả riêng ta chả riêng ai để heo hút gió thở dài trên cây (Bất chợt) Nhịp lẻ không tạo nên sự cân xứng, nhịp nhàng nhưng nó có tác dụng tạo sự dồn nén, có ý nghĩa của đòn bẩy để làm nổi bật vế sau: Yêu bằng mắt/ cũng là yêu Cõi đời đẹp/ đủ liêu xiêu cõi mình (Nét và hình) Trắng trong từng hạt rơi rơi để cho em / nép vào tôi thế này. (Đám mây dừng lại trên trời) Bao triều vua/ phế đi rồi Người yêu nước/ chẳng mất ngôi bao giờ (Tưởng niệm) Có thể nói, Nguyễn Duy tạo ra cách ngắt nhịp mới cho lục bát: nhịp lẻ, song lục bát của Nguyễn Duy vẫn cứ là lục bát bởi sự cân đối, nhịp nhàng giữa các vế. Đặc biệt, nguyên tắc bất di bất dịch, vần chân ở câu sáu bao giờ cũng vẫn cặp nhịp 35 Hỏa Diệu Thúy nhàng với vần lưng ở câu tám. Nắm chắc bí quyết của thể loại, thi sĩ thỏa sức tung hoành trong việc thiết kế nên những dáng vẻ mới cho cấu trúc lục bát. Biện pháp đoạn cú cũng là chiêu thức được dùng để phá cách nhịp. Bài Tre Việt Nam rất tiêu biểu cho phương pháp này. Câu sáu của khổ cuối ngoài sự độc đáo của thanh điệu (toàn thanh bằng), lại được ngắt thành ba dòng tạo sức vang ngân rất xa khẳng định sự trường tồn của tre xanh và sức sống Việt Nam: Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh. 2.2.2. Phá cách thanh điệu Thanh điệu vốn là thế mạnh của thơ nói chung, lục bát nói riêng. Để tạo ra nhịp điệu riêng, luật điều phối thanh điệu trong cấu trúc lục bát truyền thống khá nghiêm nhặt, như sau: x B x T x B x B x T x B x B Trong nhiều trường hợp Nguyễn Duy đã không tuân thủ quy tắc đó: Hứng bom đỡ đạn đã nhiều Vẫn lặng thinh với cỏ rêu bên đường (Hầm chữ A) Đố em bán gió cho trời Để anh đánh thuế bọn người buôn nhau Đố em mua chịu nỗi đau Để anh hóa giá bảy màu giấc mơ (Thách thức) Việc chuyển đổi thanh điệu cũng có thể coi là một phương pháp phá cách nhịp. Vì sự thay đổi thanh điệu cũng làm thay đổi nhịp lục bát truyền thống. Đọc lục bát Nguyễn Duy ngoài nhịp điệu uyển chuyển quen thuộc, người đọc sẽ bắt gặp nhịp “gập nghềnh, trúc trắc” do sự phá cách thanh điệu hoặc do phép đoạn cú tạo ra, song đó chính là chỗ Nguyễn Duy tạo lập sự sáng tạo và phần lớn ông đã thành công. 3. Kết luận Có thể coi những sáng tạo của Nguyễn Duy với thể lục bát cũng là một kiểu “nghịch dị”. Nguyễn Duy đã “nghịch dị” để tạo nên sự “lạ hoá” cho thể thơ cổ điển 36 Nguyễn Duy “lạ hóa” lục bát của dân tộc. Đến Nguyễn Duy, lục bát đã trở thành “cây đàn muôn điệu” có thể tấu lên nhiều cung bậc, thanh âm có thể chinh phục tâm hồn và sở thích của nhiều tầng lớp, thế hệ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Duy, 1973. Cát trắng. Nxb Quân đội, Hà Nội. [2] Nguyễn Duy, 1984. Ánh trăng. Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. [3] Nguyễn Duy, 1987. Mẹ và em. Nxb Thanh Hóa, Hà Nội. [4] Nguyễn Duy, 1989. Đường xa. Nxb Trẻ, Hà Nội. [5] Nguyễn Duy, 1990. Quà tặng. Nxb Văn học, Hà Nội. [6] Nguyễn Duy, 1994. Về. Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. ABSTRACT Nguyen Duy “renovated” six- eight stanza words to Poetry Nguyen Duy is considered infinitely skilled in the six-eight word stanza. The poet was not only good at old style writings but he also found the way to renovate it, he made six-eight word stanza poetry style become multiform. Reading Nguyen Duy’s poetry, we seem to meet a new tradition by his very fond modern melodies. These two styles mix with each other and make six-eight word stanza poetry into a very new form. It seems to be familiar and also seems to be strange. It is traditional and also modern and it maintains the National soul. Nguyen Duy’s creation can be considered a strange style. He created “strangernization”, and formed a new attraction for ancient poetry from our Nation. 37