Trong đời sống ngôn ngữ vào thời kỳ hội
nhập quốc tế, ngoại ngữ cần cho mọi thế hệ, nhất là
giới trẻ nước ta
Trước đây, việc học tiếng nước ngoài có khi do áp
đặt, nhưng ngày nay, mọi người thường mong muốn và
tự giác có được năng lực về ngoại ngữ. Chẳng hạn
như một em bé người Hmông ở Sa Pa (Lào Cai), tuy
vốn tiếng Việt còn ít ỏi, nhưng lại có khả năng giao tiếp
bằng tiếng Anh thành thạo; trong khi một kỹ sư nông
nghiệp ở vùng biên giới Việt-Trung lại mong muốn thực
hành tiếng Hoa tốt hơn là tiếng Anh, nhằm giúp cho
việc hợp tác về chuyên môn với đồng nghiệp tốt hơn.
Mỗi ngôn ngữ có vị thế của nó trong đời sống ngôn
ngữ. Không chỉ là ngoại ngữ, các thứ tiếng: Hoa,
Khmer và Lào còn được xem là ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số ở Việt nam
Trên cơ sở phân tích tình hình chính sách ngôn ngữ
nói chung, chính sách ngoại ngữ nói riêng, chúng tôi
xin đưa ra một vài khuyến nghị đối với quý vị làm chính
sách ở Việt Nam. Ưu tiên dành cho một ngoại ngữ chịu
tác động của cuộc sống hiện tại, đặc biệt là sinh kế.
Song mọi áp đặt về chính sách ngôn ngữ đều gây phản
cảm, thậm chí là phản ứng ngầm. Khi Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước thì chính sách thích hợp là
hướng tới trạng thái đa ngữ trong đa dạng văn hóa,
được tổ chức UNESCO khuyến khích.
Sau cùng, những quan điểm chỉ đạo về chính sách
ngoại ngữ ở Việt Nam cần được đưa vào Luật Ngôn
ngữ đang được xây dựng.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mấy khuyến nghị về chính sách ngoại ngữ ở Việt Nam thời hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
249
MẤY KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI NGỮ
Ở VIỆT NAM THỜI HỘI NHẬP
Vng Toàn
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Tóm t
t: Trong đời sống ngôn ngữ vào thời kỳ hội
nhập quốc tế, ngoại ngữ cần cho mọi thế hệ, nhất là
giới trẻ nước ta
Trước đây, việc học tiếng nước ngoài có khi do áp
đặt, nhưng ngày nay, mọi người thường mong muốn và
tự giác có được năng lực về ngoại ngữ. Chẳng hạn
như một em bé người Hmông ở Sa Pa (Lào Cai), tuy
vốn tiếng Việt còn ít ỏi, nhưng lại có khả năng giao tiếp
bằng tiếng Anh thành thạo; trong khi một kỹ sư nông
nghiệp ở vùng biên giới Việt-Trung lại mong muốn thực
hành tiếng Hoa tốt hơn là tiếng Anh, nhằm giúp cho
việc hợp tác về chuyên môn với đồng nghiệp tốt hơn.
Mỗi ngôn ngữ có vị thế của nó trong đời sống ngôn
ngữ. Không chỉ là ngoại ngữ, các thứ tiếng: Hoa,
Khmer và Lào còn được xem là ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số ở Việt nam
Trên cơ sở phân tích tình hình chính sách ngôn ngữ
nói chung, chính sách ngoại ngữ nói riêng, chúng tôi
xin đưa ra một vài khuyến nghị đối với quý vị làm chính
sách ở Việt Nam. Ưu tiên dành cho một ngoại ngữ chịu
tác động của cuộc sống hiện tại, đặc biệt là sinh kế.
Song mọi áp đặt về chính sách ngôn ngữ đều gây phản
cảm, thậm chí là phản ứng ngầm. Khi Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước thì chính sách thích hợp là
hướng tới trạng thái đa ngữ trong đa dạng văn hóa,
được tổ chức UNESCO khuyến khích.
Sau cùng, những quan điểm chỉ đạo về chính sách
ngoại ngữ ở Việt Nam cần được đưa vào Luật Ngôn
ngữ đang được xây dựng.
Abstract: In the national linguistic living during the
international integration period, foreign languages are
essential to all generations, especially to youngsters.
Beforehand, foreign language learning was forced
sometimes but now, it becomes a desirable and
voluntary working requirement to anyone. For
examples: A Hmong teenager in Sapa (Lao Cai
province) having little Vietnamese skill can be proficient
in English by daily usage while an agricultural engineer
working in the Vietnamese-Chinese border region
would like to improve his Chinese skills more than
English ones to support his professional cooperation
with Chinese colleagues.
Each language has its own position in the linguistic
living. Three tongues of Chinese, Khmer and Lao are
also vernacular of these three ethnic groups in Vietnam.
Based on an analysis on the Vietnamese situations
reflecting the linguistic policies in general and on
foreign languages in particular, some
recommandations are proposed to the politics-makers.
The privilege should be focused on any foreign
language by our modern life, especially to look for a
living. So that, any imposition in linguistic policies
provokes an asympathy, even a clandestine reaction. A
multilingualism in cultural pluralism solicited by
UNESCO is favourable to Vietnam which would like to
be friendly toward all the countries.
Finally, the directive stand-points of policies to
foreign languages in Vietnam should be introduced in
the Law of languages in construction.
1. Ngoại ngữ trong đời sống ngôn ngữ của
người Việt Nam thời mở cửa để hội nhập
Ngoại ngữ là phương tiện không thể thiếu khi
cần/muốn giao lưu với người nước ngoài và/hoặc
tiếp cận với thông tin bằng tiếng nước ngoài. Do
vậy, khi Việt Nam bước vào thời kỳ mở cửa để
hội nhập, đương nhiên ngoại ngữ trở thành một
công cụ đắc dụng trong hành trang của mọi người,
mọi thế hệ, nhất là lớp trẻ. Cùng với những kiến
thức về tin học, tùy công việc, trình độ và khả
năng hiểu biết/sử dụng một hay nhiều ngoại ngữ
đã trở thành một trong những tiêu chuẩn "cần" khi
tuyển chọn nhân viên trong mọi thành phần kinh
tế... Chỉ cần đọc lướt các yêu cầu tuyển dụng được
công bố trên phương tiện thông tin đại chúng là ta
có thể thấy ngay điều này.
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng
250
Trước đây, có nơi, có lúc ngoại ngữ bị áp đặt là
ngôn ngữ bắt buộc... thậm chí người dân không
được học tiếng mẹ đẻ. Nay nhiều nơi, nhiều lúc,
học và sử dụng ngoại ngữ hoàn toàn do tự
nguyện đôi khi thái quá đến mức tự coi thường
và xem nhẹ vị trí của tiếng mẹ đẻ!
Khi Việt Nam “muốn làm bạn với tất cả các
nước” thì càng biết nhiều ngoại ngữ càng có lợi,
bởi người ta sẽ chủ động hơn trong giao lưu và
tiếp cận thông tin, phục vụ cho cả kinh doanh và
sản xuất (như một thông tin mới nắm bắt được có
thể sẽ dẫn tới đổi mới công nghệ), vừa lợi nhà
mà cũng rất ích nước.
Lợi ích các mặt của người dân và đất nước
luôn chịu sự tác động của chính sách xã hội, trong
đó có chính sách ngoại ngữ. trước hết là chính
sách giáo dục ngoại ngữ, do nó có tác động quan
trọng đến cả đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa,
ngoại giao, quốc phòng, Do vậy, chính sách
ngoại ngữ cần phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
song không thể xem đây chỉ là khẩu hiệu suông.
Để đi đến một vài khuyến nghị về chính sách
ngoại ngữ ở Việt Nam trong xu thế hội nhập, chúng
ta cần xuất phát từ thực trạng tình hình hiện nay.
2. Mấy khuyến nghị từ thực trạng về chính
sách ngoại ngữ ở Việt Nam
2.1. Do chính sách ngoại ngữ không chỉ xác
định vị thế và những ưu tiên dành cho một (số)
ngoại ngữ trong mối tương quan với các ngôn
ngữ khác (cùng được hành chức trong một cộng
đồng dân tộc), nên ở một quốc gia đa dạng văn
hóa như Việt Nam, ngoại ngữ được xem xét trong
mối tương quan với ngôn ngữ quốc gia (tiếng
Việt) và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số (DTTS)
trong nước, đặc biệt là ngôn ngữ của ba dân tộc
láng giềng: Hoa, Khmer1 và Lào còn có tư cách là
các ngôn ngữ DTTS ở Việt Nam.
1
Hoa, Khmer là tên gọi chính thức các DTTS này ở Việt
Nam. Hai ngôn ngữ này còn được gọi là tiếng Trung
(Quốc/Hoa)/Hán và Campuchia/ Miên, khi xem là những
ngoại ngữ, như trong các bản gốc khi được trích dẫn.
Chúng tôi có đề xuất cách gọi tên thống nhất ở cuối bài.
Luật phổ cập giáo dục tiểu học (1998) quy định
Ngôn ngữ dùng trong nhà trường như sau: “Tiếng
Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà
trường”, đồng thời cũng xác định: “Nhà nước tạo
điều kiện để người DTTS được học tiếng nói, chữ
viết của dân tộc mình” Luật Giáo dục (2005)
chỉ rõ: “1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng
trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ
vào mục tiêu giáo dục, Thủ tướng Chính phủ quy
định yêu cầu cụ thể việc dạy và học bằng tiếng
nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục
khác. 2. Nhà nước tạo điều kiện để người DTTS
được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình
nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
giúp cho người DTTS dễ dàng tiếp thu kiến thức
khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục
khác”. Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày
15/7/2010 quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ
viết của DTTS trong các cơ sở giáo dục phổ thông
và trung tâm giáo dục thường xuyên: Tiếng DTTS
trở thành môn học.
Nói cách khác, không chỉ là ngoại ngữ, các thứ
tiếng; Hoa, Khmer và Lào còn có vị trí trong cả
giáo dục phổ thông lẫn giáo dục thường xuyên, và
thêm nữa, theo Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg ngày
09/11/2004 về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng
tiếng DTTS đối với cán bộ, công chức công tác ở
vùng dân tộc, miền núi thì “đào tạo, bồi dưỡng
tiếng dân tộc cho cán bộ công chức là một trong
những nhiệm vụ quan trọng và yêu cầu bắt buộc”,
và ngày 24/01/2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ra Quyết định số 03/2006/QĐ-
BGD&ĐT ban hành Chương trình khung dạy
tiếng DTTS (có chữ viết) cho cán bộ, công chức
công tác ở vùng DTTS. Chương trình dạy tiếng
Lào cho cán bộ, chiến sĩ phục vụ việc cắm mốc
biên giới Việt-Lào do Văn phòng Chính phủ chủ
trương, được Bộ Giáo dục cùng Ban Biên giới
triển khai từ năm 2008 và một số lớp tiếng Lào
gần đây được tổ chức là những ví dụ cụ thể.
Việc sử dụng tiếng DTTS được coi trọng nhằm
phục vụ công tác tuyên truyền cách mạng, ngay từ
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
251
khi chưa nắm được chính quyền. Nghị quyết của
Trung ương Đảng về công tác trong các DTTS
ngày 28/3/1935 chỉ rõ: “Các tỉnh có người DTTS
phải dùng đủ phương pháp mà xuất bản báo
chương, truyền đơn và các tài liệu khác bằng chữ
DTTS ” và «các dân tộc được dùng tiếng mẹ đẻ
của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn
hoá”(2).
Chỉ thị số 525-TTg ngày 02/11/1993 của Thủ
tướng Chính phủ về một số chủ trương, biện pháp
tiếp tục phát triển kinh tế, xã hội miền núi chỉ rõ:
“Tiếp tục phát triển phát thanh và truyền hình ở
miền núi và vùng dân tộc: hết 1995, hoàn thành
việc phủ sóng truyền hình cho các huyện. Nâng cao
chất lượng các buổi phát thanh bằng tiếng dân tộc.”
Quyết định 53CP ngày 22/02/1980 của Hội
đồng Chính phủ về chủ trương đối với chữ viết
của các DTTS đã giao cho Bộ Văn hoá và Thông
tin (nay là Bộ Văn hoá, thế thao, du lịch và Bộ
Thông tin và Truyền thông) chỉ đạo việc “Tổ chức
việc sử dụng đồng thời tiếng, chữ phổ thông và
tiếng, chữ dân tộc trong công tác thông tin, tuyên
truyền triển lãm ở các vùng đồng bào DTTS”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7
(khoá IX) (2005) nêu rõ: «Tăng thời lượng và
nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh,
truyền hình bằng tiếng DTTS».
Với chủ trương như thế, không chỉ được triển
khai dạy-học ở nhà trường, hoạt động phát thanh
và truyền hình ở trung ương và địa phương đã có
các chương trình tiếng Hoa (được xem là ngoại
ngữ) và tiếng Khmer (trong các hệ phát sóng tiếng
dân tộc VOV4 và VTV5).
Việc sử dụng tiếng DTTS nay còn được coi
trọng, xét trong tương quan với ngoại ngữ. Dự
thảo Nghị định quy định tiêu chuẩn chức danh
quản lý của công chức trong các cơ quan hành
chính nhà nước được Bộ Nội vụ đăng tải, lấy ý
kiến các tổ chức, cá nhân nhấn mạnh điều kiện về
trình độ ngoại ngữ của chức danh Thứ trưởng: sử
2
Văn kiện Đảng. H., Nxb Sự thật, 1964, tr. 481.
đụng được ít nhất một ngoại ngữ thông dụng (Anh,
Nga, Pháp, Đức, Trung Quốc) trình độ cao cấp
bậc 6 trở lên hoặc sử dụng được tiếng Lào,
Campuchia hoặc tiếng DTTS (3).
Một chính sách ngôn ngữ sẽ chỉ có tác dụng
tích cực khi phù hợp với lòng người, đó là đáp
ứng nhu cầu có thực và thường xuyên chứ không
phải áp đặt (hoàn toàn chỉ vì theo qui chế hiện
hành hoặc để đáp ứng tiêu chuẩn chức danh nào
đó, có tính nhất thời (cốt đủ điểm dẫn đến nạn
chạy/mua bằng cấp/chứng chỉ). Như thế, ở vùng
có đông đồng bào DTTS, chủ trương sử dụng một
thứ tiếng phổ biến trong vùng có thể thay cho tiêu
chuẩn ngoại ngữ đối với công chức, viên chức và
lực lượng vũ trang địa phương quả thực đã phát
huy tác dụng hơn nhiều.
2.2. Chính sách ngoại ngữ xác định vị thế và
những ưu tiên dành cho một (số) ngôn ngữ trong
mối tương quan với các ngôn ngữ khác cùng được
hành chức ở một quốc gia, thể hiện rõ nhất là
trong giáo dục.
PGS.TS Bùi Hiền (4) nhắc lại rằng ngay tại
buổi lễ khai giảng trường Đại học Quốc gia Việt
Nam ngày 15-11-1945, trước sự có mặt của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, giáo sự Nguyễn Văn Huyên,
Giám đốc Đại học vụ (về sau là Bộ trưởng Bộ
Giáo dục), đã nói: “ vì nhận xét rằng trong thế
giới đại đồng ngày nay không một nước nào dầu
lớn hay nhỏ, là có thể sống tách biệt được, nên
trường đại học sẽ chú trọng đặc biệt ngay trong
niên khoá 1945-1946 tới những sinh ngữ có quan
trọng cho văn hoá như tiếng Trung Hoa, tiếng
Anh-Mĩ, tiếng Nga”(5). Và cũng ngay từ năm học
đầu tiên sau ngày Độc lập, ở các trường trung học
phổ thông trong cả nước đều dạy song song hai
ngoại ngữ là Pháp và Anh.
3
it-nhat-mot-ngoai-ngu-888756.htm
4
Xin cám ơn PGS.TS Bùi Hiền, Nguyên Phó Hiệu tưởng
Trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, đã cho phép chúng tôi
tham khảo và trích dẫn bản thảo Tuyển tập.
5
Báo Nhân dân, 31-12-2001.
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng
252
Năm 1950, thực hiện cuộc cải cách giáo dục
lần thứ nhất trong điều kiện kháng chiến đặc biệt
khó khăn, Nhà nước cho rút ngắn hệ thống giáo
dục phổ thông từ 12 năm xuống còn 9 năm, các
môn ngoại ngữ tạm thời vắng mặt trong chương
trình. Sau hiệp định Genève năm 1954, miền Bắc
tiến hành cải cách để hợp nhất hệ thống giáo dục
của vùng tự do và vùng tạm chiếm cũ thành hệ
thống giáo dục phổ thông 10 năm: môn tiếng
Pháp/ tiếng Anh vốn có ở các trường tạm chiếm
cũng bị loại luôn.
Kể từ năm 1956 đến nay, các ngoại ngữ được
dạy và học chính thức trong hệ thống giáo dục
quốc dân Việt Nam không thay đổi, bao gồm tiếng
Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và gần đây là tiếng
Nhật, tiếng Hàn, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và
một số ngoại ngữ khác. Việc kiên trì giữ vững chủ
trương dạy-học cả 4 ngoại ngữ phổ biến là Anh,
Pháp, Nga, Trung Quốc đã 3 lần được khẳng định
trong các Chỉ thị và Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ.
Mãi cho tới năm 1958, môn ngoại ngữ mới
được khôi phục lại trong trường phổ thông (ban
đầu là tiếng Nga và tiếng Trung Quốc, sau đó
thêm tiếng Anh và tiếng Pháp). Từ đó trở đi, ngoại
ngữ luôn luôn có vị trí nhất định trong hệ thống
các môn học phổ thông. Tuy nhiên tuỳ theo điều
kiện và yêu cầu thực tiễn của đất nước trong từng
giai đoạn mà bộ môn ngoại ngữ nói chung và từng
ngoại ngữ cụ thể nói riêng lại có những vị thế
khác nhau. Trong giai đoạn này tiếng Nga và tiếng
Trung được coi trọng hơn vì đó là tiếng của hai
nước XHCN lớn (đặc biệt là tiếng Nga, không chỉ
được xem là “ngôn ngữ giao tiếp giữa các dân
tộc” ở Liên bang Xô viết cũ mà còn được sử dụng
như công cụ làm việc ở khối SEPT, gồm các nước
XHCN ở Đông Âu), cho nên được dạy phổ biến
khắp nơi, còn tiếng Anh và tiếng Pháp chỉ day-học
rải rác ở thủ đô và một số thành phố lớn.
Năm 1968, Chỉ thị số 43/TTg “Về việc đẩy
mạnh công tác dạy và học ngoại ngữ trong các
trường phổ thông, các trường chuyên nghiệp,
trong cán bộ khoa học, kĩ thuật, kinh tế và trong
công nhân kĩ thuật” của Thủ tướng Chính phủ sau
khi chỉ rõ: “ các ngành, các cấp chưa nhận thức
được đúng đắn vai trò và tác dụng của ngoại ngữ
đối với sự nghiệp cách mạng văn hoá, khoa học,
kĩ thuật của nước ta. Các cơ quan giáo dục chưa
làm cho mọi người thấy rõ ngoại ngữ là một phần
không thể thiếu được trong nền giáo dục phổ
thông. Lãnh đạo các ngành, các cấp chưa thấy rõ
ngoại ngữ là một công cụ giúp cho cán bộ tiếp thu
nhanh chóng và trực tiếp những thành tựu khoa
học, kĩ thuật thế giới”, đã xác định phương hướng,
nhiệm vụ: “Về lâu dài, phấn đấu dạy 2 ngoại ngữ
trong các trường phổ thông và các trường chuyên
nghiệp Trong các thứ tiếng của phe XHCN cần
chú trọng tiếng Nga và tiếng Trung Quốc, trong
các thứ tiếng của các nước phương Tây chú trọng
tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngoài ra cần chú ý một
số tiếng khác như tiếng Tây Ban Nha, Nhật, Đức,
Triều Tiên, Ả-rập, Cam-pu-chia”.
Trước cơ hội mở rộng quan hệ quốc tế, do quân
dân ta đang thắng lợi lớn trên chiến trường và
cuộc đàm phán đang diễn ra tại Paris, ngày 7-9-
1972, Chính phủ ban hành Quyết định số 251/TTg
“Về việc cải tiến và tăng cường công tác dạy và
học ngoại ngữ trong các trường phổ thông” đã nêu
ra nhiều chỉ dẫn và biện pháp cụ thể, đặc biệt là
khẳng định “Môn ngoại ngữ phải được coi là một
môn học phổ thông cơ bản trong hệ thống chương
trình học của các trường phổ thông từ cấp II trở
lên”, với mục tiêu hướng tới là: «trong một thời
gian không xa lắm, tổ chức được việc dạy và học
ngoại ngữ ở các trường phổ thông cấp II và cấp III,
theo mức cấp II học một ngoại ngữ, ở cấp III học
đồng thời 2 ngoại ngữ (một chính và một phụ)»,
với yêu cầu cụ thể cần đạt được là «Học sinh cấp
III phải nắm được những kiến thức tối thiểu về
ngữ pháp cơ bản, về từ vựng và về ngữ âm cơ bản,
đọc và hiểu được các truyện ngắn và bài báo hàng
ngày và có cơ sở để tự học thêm». Quyết định
251/TTg cũng xác định “Những ngoại ngữ được
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
253
tổ chức dạy và học ở các trường phổ thông là:
tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, tiếng
Pháp. Trước mắt cần tăng cường và mở rộng
nhanh chóng việc dạy và học tiếng Anh và tiếng
Nga; đối với tiếng Trung Quốc và tiếng Pháp, thì
vẫn bảo đảm mức phát triển bình thường trên cơ
sở hiện có, và giữ vững tỉ lệ thích đáng so với
tiếng Anh và tiếng Nga.”
Quyết định mới này đang trong quá trình chuẩn
bị điều kiện để triển khai thì chiến dịch Hồ Chí
Minh toàn thắng (30/4/1975). Sự nghiệp thống
nhất đất nước trong lĩnh vực giáo dục, trong đó có
ngoại ngữ đang được bàn tính để từng thứ tiếng có
tương lai phát triểnthì xung đột biên giới diễn ra,
tiếng Trung Quốc bị loại ra khỏi chương trình phổ
thông, và ít lâu sau, Bộ Giáo dục có chỉ thị quy
định tiếng Nga là ngoại ngữ chính, tiếng Anh và
tiếng Pháp chỉ dạy ở những thành phố lớn có nhu
cầu và đủ điều kiện. Như thế, khi bước vào công
cuộc CCGD lần thứ III, theo Nghị quyết số 14-
NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 11-01-1979, trong
điều kiện đất nước thống nhất cùng đi lên CNXH,
môn ngoại ngữ được khẳng định vị trí trong
chương trình giáo dục phổ thông 12 năm, và tiếng
Nga vẫn được coi là ngoại ngữ chính. Tuy nhiên,
do điều kiện thiết yếu nhất là giáo viên thì lại
không có đủ cho cả nước, vì thế nhiều nơi đã phải
lấy một môn học khác để thi tốt nghiệp thay cho
môn ngoại ngữ.
Khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất
nước và từng bước hội nhập với thế giới, với
phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá các
mối quan hệ quốc tế và Việt Nam muốn làm bạn
với tất cả các nước, thì dạy-học ngoại ngữ đã trở
thành một vấn đề thời sự, một nhu cầu không thể
thiếu của xã hội Việt Nam. Tình hình đó kéo dài
cho tới khi Liên Xô sụp đổ (năm 1991) và vị thế
của tiếng Nga bị giảm sút: hàng loạt trường phổ
thông tự phát chuyển sang dạy tiếng Anh theo “cơ
chế thị trường” điều tiết các môn ngoại ngữ. Kết
quả là tiếng Anh đã chiếm tới hơn 95%. Tuy nhiên,
Chỉ thị số 422/TTg ngày 15-04-1994 của Thủ
tướng vẫn khẳng định cần dạy học phổ biến cả 4
ngoại ngữ, với “Yêu cầu cấp bách đặt ra là cán bộ
ở tất cả các cấp đều phải biết ngoại ngữ để trực
tiếp giao dịch, làm việc với người nước ngoài và
để có điều kiện tiếp tục học tập, nghiên cứu”, đặc
biệt là nhấn mạnh: “Đối với cán bộ từ cấp Thứ
trưởng trở xuống dưới 45 tuổi, làm việc tại các cơ
quan có chức năng đối ngoại và kinh tế đối ngoại,
việc sử dụng được ít nhất một ngoại ngữ thông
dụng (chủ yếu là tiếng Anh) là yêu cầu bắt buộc,
được coi là một tiêu chuẩn và là điều kiện để xem
xét đề bạt, nâng bậc, cử đi công tác nước ngoài”.
Bước sang thế kỉ 21, sau khi Việt Nam gia
nhập WTO, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã soạn thảo
“ Chiến lược dạy học ngoại ngữ đến năm 2000”,
trong đó thể hiện ý định thể chế hoá bằng văn bản
là trong trường phổ thông chỉ dạy một ngoại ngữ
bắt buộc là tiếng Anh, nhưng không được dư luận
xã hội đồng tình.
Ngày 30-09-2008 Phó thủ tướng Nguyễn Thiện
Nhân kí Quyết định số 1400/ QĐ/TTg về việc phê
duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”,
trong đó: “Quy định môn ngoại ngữ được dạy và
học trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân là tiếng Anh và một số ngôn ngữ
khác.”.
Trên thực tế, tiếng Anh vẫn chiếm vị trí “siêu
hạng” trong môn ngoại ngữ. Thí dụ: Thông tư số
08/2009/TT-BGDĐT kí ngày 21-04-2009 về việc
sửa đổi Quy chế đào tạo thạc sĩ ban hành kèm
theo Quyết định số 45/2008/ QĐ-BGDĐT cho
phép người học tự do chọn một trong 5 ngoại ngữ
(Anh, Pháp, Nga, Trung, Đức) để thi vào cao học,
thay vì bắt buộc chỉ thi tiếng Anh như trước.
Nhưng Thông tư này vẫn quy định rất rõ ràng, cụ
thể, chặt chẽ đến từng chi tiết nhỏ nhất:
“Học viên chỉ được bảo vệ luận văn khi có đủ
các điều kiện sau đây:
a) Đạt yêu cầu về trình độ tiếng Anh với một
trong các chứng chỉ, văn bằng sau:
Tiu ban 1: Đào to chuyên ng
254
- Đạt trình độ TOEFL ITR 450, TOEFL iBT 45
hoặc IETLS 4.5 trở lên hoặc tương đương tr